03 - Trong mỗi người cả Thượng đế và Satan đều tồn tại
Chương 3
Trong
mỗi người
cả Thượng đế và Satan
đều tồn tại
Tôi tiếp tục lại bài nói của mình bằng một câu chuyển cổ tích. Nhiều, nhiều năm trước đây, trong một nước nào đó, có một hoạ sĩ trẻ tuổi và nổi tiếng. Anh ta quyết định tạo ra một bức chân dung thực sự vĩ đại, bức chân dung sống đầy niềm vui của Thượng đế, bức chân dung về một người có đôi mắt toả ra an bình vĩnh hằng. Và do vậy, anh ta bắt đầu tìm một ai đó có khuôn mặt phản ánh được ánh sáng vĩnh hằng, thanh thoát.
Nghệ sĩ này đi lang thang
từ làng nọ sang làng kia, từ rừng nọ sang rừng kia để tìm ra chủ đề của minh,
và sau cùng anh ta bắt gặp một người chăn cừu với đôi mắt toả sáng, với khuôn
mặt và hình dáng mang điều hứa hẹn về một quê hưcmg tinh tú nào đó. Một cái
nhìn cũng đủ thuyết phục anh ta rằng Thượng đế đã hiện diện trong người thanh
niên này.
Người nghệ sĩ này đã vẽ bức
tranh về người chăn cừu trẻ. Hàng triệu bản sao bức tranh đã được in ra và bán
rộng rãi. Mọi người cảm thấy rất biết ơn, chỉ vì được treo bức tranh đó trên
tường nhà họ.
Sau đó hai mươi năm, khi
nghệ sĩ này đã về già, ông ta quyết định vẽ một bức chân dung khác. Kinh nghiệm
của ông ta đã chứng tỏ cho ông ta rằng cuộc sống không phải tất cả đều là tốt,
rằng quỉ Satan cũng tồn tại trong con người. Ý tưởng về vẽ ra bức tranh Satan
cứ dai dẳng mãi; nếu như ông ấy hoàn thành dự định này, thế thì hai bức tranh
sẽ bổ sung cho nhau, sẽ chỉ ra con người hoàn chỉnh. Ông ta đã vẽ bức tranh về
cái thiện; bây giờ ông ta muốn hoạ lại hoá thân của cái ác.
Ông ta đã gặp một người,
không phải là người mà là Satan. Anh ta đi tới các ổ đánh bạc, các quán rượu và
nhà điên. Chủ thể này phải đầy những lửa địa ngục; khuôn mặt anh ta phải chỉ ra
tất cả cái ác độc, xấu xa và tàn bạo.
Sau tìm kiếm lâu dài, nghệ
sĩ này cuối cùng gặp một tù nhân đang trong trại giam. Người này đã phạm phải
bẩy lần giết người và đã bị xử treo cổ trong vài ngày tới. Địa ngục hiển nhiên
có trong mắt người này; chúng toé ra căm ghét. Khuôn mặt anh ta là khuôn mặt
xấu xí nhất mà người ta có thể hi vọng tìm thấy được. Người nghệ sĩ này bắt đầu
vẽ anh ta.
Khi ông ta đã hoàn thành
bức chân dung này ông ta đem bức chân dung trước đây lại và đặt nó bên cạnh bức
tranh mới cho tương phản. Thật khó mà định giá bức tranh nào đẹp hơn theo quan
điểm nghệ thuật; cả hai đều tuyệt vời. Ông ta đứng đó, nhìn vào cả hai bức
tranh. Và thế rồi ông ta nghe thấy tiếng nức nở. Ông ta quay lại và thấy người
tù bị xiềng đang khóc. Người nghệ sĩ này bối rối. Ông ta hỏi, «Anh bạn, sao anh lại khóc? Những bức tranh này
làm xáo động anh sao?»
Người tù nói: «Tôi đã cố gắng che giấu cái gì đó với ông trong suốt mọi thời gian này, nhưng hôm nay tôi thất bại. Ông hiển nhiên không biết rằng bức tranh thứ nhất cũng là về tôi. Cả hai bức tranh đều là về tôi. Tôi chính là kẻ chăn cừu ông đã gặp hai mươi năm trước đây trên đồi. Tôi khóc vì sự xuống dốc của mình trong hai mươi năm qua. Tôi đã sa ngã từ cõi trời xuống địa ngục, từ Thượng đế xuống quỉ Satan.»
Tôi không biết câu chuyện
này đúng đến đâu, nhưng một điều là chắc chắn: cuộc sống của mỗi người đều có
hai mặt trái ngược; hai bức tranh của mọi người là có thể có. Trong mọi con
người cả Thượng đế và Satan đều tồn tại; trong mọi con người đều có khả năng
của thiên đường, và khả năng của địa ngục. Bó hoa hồng đẹp có thể lớn lên trong
con người; đống bùn cũng có thể đùn lên trong người đó. Mọi con người đều đung
đưa giữa hai cực đoan đó. Con người có thể đạt tới một trong hai cực đoan này,
nhưng phần lớn mọi người đều nghiêng về địa ngục. Vài người may mắn thiết tha
với cái vĩnh hằng, người để cái thiện trưởng thành trong họ là hiếm hoi. Chúng
ta có thể thành công trong việc làm cho các kiếp sống của chứng ta thành ngôi
đền của Thượng đế không? Chúng ta cũng có thể trở thành giống như bức chân dung
có thoáng nhìn về Thượng đế trong đó không?
Với câu hỏi này tôi tiếp
nối bài nói chuyện hôm nay. Làm sao con người có thể trở thành sự phản xạ của
Thượng đế? Làm sao có thể làm cho cuộc sống con người trở thành thiên đường,
làm cho nó tỏa thơm hương, đẹp đẽ, hài hoà? Làm sao có thể làm cho con người biết
rằng cái gì là bất tử? Làm sao có thể làm cho con người đi vào ngôi đền của
Thượng đế?
Trong hoàn cảnh này, các sự
kiện của cuộc sống chỉ ra rằng tất cả tiến bộ của chúng ta, cho tới nay, đều đã
theo hướng đối lập. Thời niên thiếu chúng ta sống trong thiên đường, nhưng khi chúng
ta lớn lên già hơn, dần dần chúng ta sa xuống địa ngục. Thế giới niên thiếu đầy
những hồn nhiên và thuần khiết, nhưng chứng ta dần dần bắt đầu du hành trên con
đường phủ đầy dối trá và phản bội, và vào lúc chúng ta chín chắn thì chúng ta đã già -
không chỉ về vật lí mà còn cả tâm linh. Không chỉ thân thể trở nên yếu đi và
hom hem, mà linh hồn cũng sa ngã vào trong trạng thái đổ nát nữa. Nhưng chúng ta
đơn giản chấp nhận điều này; chúng ta đã đơn giản để cho vấn đề kết thúc ở đó.
Nhưng chúng ta cũng kết liễu cả bản thân mình.
Tôn giáo mang tính định mệnh về câu hỏi này, về sự xuống dốc này, về cuộc hành trình này từ cõi trời xuống địa ngục. Nhưng cuộc hành trình này nên đảo ngược lại. Cuộc hành trình này nên là cuộc hành trình có thưởng - từ buồn tới vui, từ bóng tối ra ánh sáng, từ hữu tử tới bất tử. Thôi thúc bên trong con người là để đạt tới «không chết» từ cái «tất chết»; đây là khao khát của chiều sâu nhất nơi linh hồn con người. Việc tìm kiếm duy nhất của linh hồn là để đạt tới ánh sáng từ chỗ tối tăm. Xu thế cơ sở của năng lượng chính của chúng ta là để đạt tới «chân lí» từ «phi chân lí».
Nhưng với cuộc hành trình
đó, con người cần gìn giữ năng lượng của mình; người đó cần cho phép năng lượng
của mình trưởng thành. Để leo lên chân lí, để đạt tới linh hồn, con người phải
trở thành kho chứa sức mạnh vô giới hạn; chỉ thế thì con người mới có thể đạt
tới cái vĩnh hằng. Cõi trời không dành cho kẻ yếu đuối.
Tôi nhắc lại, cõi trời
không dành cho kẻ yếu đuối. Chân lí của cuộc sống không dành cho những người
tiêu tán năng lượng của mình, những người cho phép bản thân mình trở thành nhu nhược
và ẻo lả. Những người hoang phí năng lượng sống, những người trở thành vô vị và bất
lực bên trong, thì không thể tiến hành cuộc thám hiểm này. Nó đòi hỏi năng
lượng lớn để leo lên các đỉnh cao.
Việc gìn giữ năng lượng là
yêu cầu chủ chốt của tôn giáo. Nhưng chúng ta là thế hệ yếu đuối, ốm yếu, và
qua việc mất năng lượng này chúng ta chìm dần vào các mức độ ngày càng yếu đuối
hơn. Lực sống của chúng ta đang bị tiêu tán mất và tất cả những cái còn lại bên
trong là tảng ong với các tổ khô cằn; chẳng có gì còn lại ngoài cái trống rỗng
khủng khiếp. Các kiếp sống của chúng ta là câu chuyện buồn liên tục của sự mất
mát; các kiếp sống của chúng ta không hữu ích chút nào.
Tại sao tình huống không
hấp dẫn này tồn tại? Và làm sao chúng ta làm mất năng lượng của mình?
Lối ra lớn nhất cho năng
lượng của con người là dục. Dục là sự tiêu hao liên tục, và nó nên được dừng
lại. Chẳng ai thích mất cái gì cả, nhưng như tôi đã nói với các bạn trước đây,
có một nguyên nhân không cưỡng nổi tại sao con người rút đi quá nhiều năng
lượng của mình. Bởi vì cái thoáng nhìn phúc lạc trong dục, con người bị lôi đi,
dù muốn hay không, vào việc mất năng lượng hết lần nọ tới lần kia. Toả sáng
nhưng sung sướng vô ngần tạm thời, tới cùng với dục, có sức hấp dẫn con người
lớn đến mức con người rơi vào việc đánh mất chính cái là cơ sở cho mọi thứ.
Nếu cùng niềm cực lạc đó có
sẵn bằng những phương tiện nào đó, liệu người ta có lãng phí năng lượng của
mình qua dục nữa không? Liệu có bất kì cách nào khác để thu được cùng kinh
nghiệm đó không? Chẳng lẽ không có bất kì cách nào khác để hiểu chính kinh
nghiệm đã được tán dương, nơi chúng ta thăm dò chỗ sâu kín nhất của linh hồn,
nơi chúng ta chạm tới đỉnh cao nhất của sự tồn tại, nơi chúng ta được trao cho
thoáng nhìn tái sinh của phúc lạc tinh tế và niềm vui thuần khiết, nơi tất cả
các định nghĩa và tất cả những giới hạn đều bay hơi sao? Có bất kì cách nào
khác không? Có bất kì kĩ thuật nào để nhận chìm vào trong vực thẳm trầm lặng
bên trong chúng ta không? Liệu có bất kì quá trình nào để thống nhất với nguồn
gốc vĩnh hằng của an bình và niềm vui vẫn tồn tại trong tất cả chúng ta hay
không?
Tri thức này sẽ phát ra tia
lửa biến đổi trong con người. Thế thì người đó sẽ quay lưng lại với
Neu con người không được
chỉ cho cánh cửa mới, người đó sẽ tiếp tục xoay quanh cùng cái vòng lặp lại và
cuối cùng sẽ phá huỷ bản thân mình. Nhưng ý tưởng lạc hậu về dục của con người
đã ngăn cản người đó thậm chí cả việc nghĩ về bất kì cánh cửa nào khác, về bất
kì lối ra cao cấp hơn nào. Và hỗn loạn chao đảo và lung tung đã được tạo ra
trong cuộc đời người đó.
Tự nhiên đã ban cho con
người một cánh cửa duy nhất, cánh cửa dục, nhưng các giáo lí trong nhiều thế kỉ
đã đóng sầm cánh cửa đó chặt lại, đã làm tắc nghẽn lối thoát đó. Với việc thiếu
lối ra thích hợp, năng lượng cuộn xoáy trong con người cứ đi vòng vo, đẩy lên
một cách vô ích: làm tan rã nhân cách người đó, làm thoái hoá người đó, biến
người đó thành loạn thần kinh.
Hơn nữa, con người thần
kinh, tan rã này thậm chí không thể nào sử dụng được cánh cửa tự nhiên về dục,
và sự ùa tới của năng lượng từ bên trong làm tan tành các bức tường và cửa sổ
của bản thể người đó. Xem như kết quả nó bùng phát ra, và con người ngã và làm
vỡ đầu minh, loạng choạng và làm gẫy tay chân mình. Bởi vì nó bị chứa bởi cánh
cửa tự nhiên, đóng kín, và bởi vì cánh cửa siêu tự nhiên vẫn còn chưa mở ra,
cho nên năng lượng dục của con người chảy ra qua lối ra phi tự nhiên. Đây là
bất hạnh lớn nhất của con người. Không cánh cửa mới nào đã được mở ra, và cánh
cửa cũ đã đóng lại.
Đây là lí do tại sao tôi
dứt khoát chống lại các giáo lí truyền thống thù địch dục, và kìm nén dục.
Chính bởi vì các giáo lí cũ, dâm dục đã không chỉ không phát triển trong con
người mà còn trở nên bị hư hỏng. Phương thuốc là gì? Có cách nào khác không?
Chúng ta nhìn vào tình
huống này một cách cẩn thận. Việc hiểu tới trong khoảnh khắc cực thích bao gồm
hai yếu tố: vô ngã và vô thời gian. Thời gian đông cứng và bản ngã bay hơi. Bởi
vì thiếu vắng bản ngã và việc dừng lại của thời gian mà người ta có một cái
nhìn rõ ràng về cái ta của riêng mình - cái ta thực của người ta. Nhưng niềm
vinh quang đó chỉ chốc lát, và thế rồi chúng ta lại trở lại trong cùng con
đường cũ. Và đồng thời chúng ta đã làm mất đáng kể khối lượng năng lượng.
Tâm trí mòn mỏi mong chờ sự
sáng lên đó; tâm trí khát khao nắm bắt nó lần nữa, nhưng ánh sáng đó, hiểu biết
đó, tạm thời đến mức chúng ta hiếm khi thoáng thấy nó khi nó biến mất. Thế thì
cái còn lại là thôi thúc, ám ảnh, lo âu sâu sắc để đạt tới kinh nghiệm đó lần
nữa. Qua toàn bộ thời gian sống của cuộc đời minh, con người cứ cố gang đi cố
gang lại để nắm bắt cái thoáng nhìn đó, cái kinh nghiệm vui vẻ đó, nhưng chẳng
bao giờ kéo dài.
Có hai cách để đạt tới siêu
tâm thức, để đạt tới cái tinh tuý của cái ta bên trong: dục và thiền. Dục là
cánh cửa do tự nhiên đem lại. Dục là quá trình tự nhiên: con vật có nó; chim
chóc có nó; cây cối có nó; con người có nó. Chừng nào con người còn chưa lợi
dụng cánh cửa tự nhiên cho bản thân mình, người đó không ở trên cao so với con
vật; người đó không thể vươn lên cao hơn con vật. Cánh cửa đó là có thể tới
được với chúng. Cái ngày con người tìm ra cánh cửa mới thì có thể được xem như
bình minh của tính người trong người đó. Trước lúc đó, chúng ta còn chưa là
người; trước lúc đó, trung tâm của chúng ta hùng với trung tâm của con vật, với
trung tâm của tự nhiên. Chừng nào chúng ta còn chưa vươn lên trên điều này,
chừng nào chúng ta còn chưa siêu việt lên trên điều này, chứng ta vẫn thực sự ở
mức độ của con vật. về dáng vẻ chứng ta là con người. Chúng ta mặc quần áo cho
minh như con người; chứng ta nói ngôn ngữ của con người, nhưng bên trong, tại
cốt lõi, tại trung tâm, chúng ta giống như con vật. Và chứng ta có thể chẳng
nhiều hơn thế. Đó là lí do cho con vật trong chúng ta bùng ra vào cơ hội sẵn có
đầu tiên.
Trong sự rung động vào lúc
hình thành ra Ân Độ và
Con người lấy kì nghỉ để
không là con người bất kì khi nào có cơ hội nhỏ nhất để buông bỏ nghĩa vụ của
mình - và con vật, đã sẵn sàng về phần nó, xồ ra. Con vật bao giờ cũng áy náy
để thoát khỏi sự kiềm chế. Và con người bao giờ cũng căng thẳng - kiềm chế con
vật này, xích nó lại.
Trong đám đông, trong một
nhóm, con người thấy cơ hội để ném đi quần áo nhân bản mình đã chấp nhận và để
quên đi bản thân mình. Trong đám đông, người đó phát triển dũng cảm để quên đi
bản thân minh, để quên đi căn cước thực mà người đó đã bị kìm hãm trong đó. Con
vật được thả lỏng. Như một cá nhân, không người nào phạm phải nhiều tội lỗi như
người đó có trong đám đông. Người cô đơn có đôi chút sợ hãi ai đó có thể nhận
ra mình; người đó lo nghĩ về cái mình đang mặc. Người cô đơn sẽ nghĩ trước hết
về điều mình định làm; người đó sợ người khác có thể gọi mình là con vật. Nhưng
ở giữa đám đông lớn nhiều người thì con người mất căn cước của mình; người đó
không lo nghĩ về việc bị làm nhơ chút nào. Thế thì người đó là một phần của đám
đông; thế thì người đó làm điều mà mọi người xung quanh người đó đang làm.
Yà người đó làm gì? Người
đó ném đá, người đó đốt lửa, người đó cưỡng hiếp. Như một phần của đám đông,
người đó nắm lấy cơ hội để cho con vật của mình được tự do. Và đó là lí do tại
sao, cứ năm đến mười năm, con người lại băn khoăn về chiến tranh, tại sao người
đó bao giờ cũng nằm trong chờ đợi, hi vọng cho nổi loạn bùng ra. Nếu đấy là cái
cớ cho vấn đề Hindu-Hồi giáo thì điều đó là tốt cho người đó. Nếu không, nguyên
nhân Gujarati-Marathi cũng sẽ phù hợp cho mục đích của người đó. Nếu Gujarati
và Marathi còn chưa chín muồi cho việc nổi loạn, thế thì xung đột giữa người
nói tiếng Hindu và người không nói tiếng Hindu sẽ thoả mãn cho người đó. Người
đó cần cái cớ, bất kì cớ nào, để giải phóng con thú không thể thoả mãn được bên
trong.
Con vật trong con người
thất vọng vì sự tù túng thường xuyên; nó tru tréo lên để đòi đi ra. Nhưng chừng
nào con vật này còn chưa được chế ngự, chưa bị tiêu diệt, thi tâm thức con
người chẳng bao giờ có thể vươn lên trên tính thú vật được.
Bản tính chúng ta, sinh lực
của chúng ta, năng lượng của chúng ta, chi có một lối ra dễ dàng, và lối ra đó
là dục. Bịt kín kênh đó sẽ tạo ra vấn đề, cho nên trước khi bịt nó, điều rất
quan trọng là phải mở tung cánh cửa mới để cho năng lượng có thể được hướng
sang chiều hướng mới. Điều này là có thể, nhưng nó vẫn còn chưa xảy ra bởi lí
do đơn giản là kìm nén dễ dàng hơn nhiều so với biến đổi. Dễ dàng che đậy một
điều, ngồi lên nó, hơn là xử trí nó, hơn là biến đổi nó - bởi vì điều sau này
đòi hỏi nỗ lực về sadhana, về quá trình vững chắc của hành động thiền. Do đó,
chúng ta đã chọn việc kìm nén bên trong về dục.
Đồng thời, chúng ta lại
không nhận biết rằng chẳng cái gì có thể bị phá huỷ bởi việc đè nén; ngược lại,
nó được làm mạnh thêm như việc phản động lại. Chúng ta cũng quên mất rằng việc
kìm nén cái gì đó lại làm mạnh thêm sự hấp dẫn của chứng ta về nó. Cái chúng ta
kìm nén không chi trở thành trung tâm của tâm thức chúng ta mà còn chìm vào
trong các tầng sâu của tiềm thức chứng ta. Chúng ta có thể kìm nén nó trong
những giờ thức, nhưng ban đêm nó sẽ loé lên qua các giấc mơ của ta. Bên trong
nó chờ đợi, băn khoăn toé ra từ cơ hội nhỏ nhặt nhất.
Kìm nén sẽ không giải phóng
con người khỏi cái gì cả; ngược lại, gốc rễ của nó sẽ ăn sâu thêm vào trong
tiềm thức người đó và đặt bẫy người đó xem như hệ quả. Trong quá trình cố gắng
dập tắt dục, con người đã làm bản thân mình vướng víu vào; người đó đã trở nên
bị mắc bẫy.
Mặc dầu con vật có những
giới hạn của chúng và thời kì của chúng, nhưng con người không bị giới hạn đó.
Con người mang dục tính từng giờ trong cả năm. Không có ngoại lệ nào, không con
vật nào trong vương quốc loài vật có nhiều dục tính tới mức độ này. Con vật có
thời gian đặc biệt cho nó, một thời kì, mùa vụ; nó tới rồi nó đi. Và sau đó con
vật không nghĩ về nó nữa. Nhưng nhìn vào điều đã xảy ra cho con người mà xem.
Điều con người đã cố gắng kìm nén, đã cố gắng ngăn chặn, lớn vọt trong cả cuộc
sống người đó. Nó là núi lửa bao giờ cũng hoạt động.
Bạn đã bao giờ quan sát
rằng không con vật nào có dục tính trong mọi lúc không, nhưng con người nghiêng
về dục trong mỗi và mọi tình huống? Dâm dục bốc lên bên trong con người, dường
như dục là tất cả mọi thứ trong cuộc sống. Làm sao hư hỏng này xảy tới? Làm sao
thảm hoạ này xuất hiện? Tại sao nó đã không xảy ra cho bất kì con vật nào? Chỉ
có một nguyên nhân: con người đã làm nhiều nhất để ngăn chặn dục. Và nó đã bùng
ra qua toàn bộ nhân cách của người đó theo một cách tương đương.
Và nghĩ về điều chúng ta đã
làm để ngăn chặn dục! Chúng ta đã phát triển thái độ lăng mạ đối với nó; chúng
ta đã phải làm đê tiện nó; chúng ta đã phải nói xấu nó. Chúng ta phải gọi nó là
tội lỗi; chúng ta đã phải hô hào từ trên mái nhà, «Dục là tội lỗi!» Chúng ta đã phải tuyên bố rằng những người mê đắm
trong dục là đê tiện, là đáng khinh. Chúng ta đã phải phát minh ra vô số cái
tên hèn hạ cho dục để biện minh cho sự ngăn chặn của ta về chứng. Nhưng chúng
ta chưa bao giờ lo nghĩ đôi khi rằng những xỉ vả và phản đối này cuối cùng sẽ
đầu độc toàn bộ con người chứng ta.
Nietzche có lần đã đưa ra
một phát biểu rất có ý nghĩa. Ông ấy nói rằng mặc dầu tôn giáo đã cố gắng để
giết chết dục bằng việc đầu độc nó, rằng dục vẫn không chết, mà vẫn sống và
tràn đầy chất độc. Đáng ra tốt hơn thì nó chết đi, nhưng nó lại không thế; nó
bị đầu độc nhưng nó vẫn cứ sống tiếp. Phương sách bị tắc tị. Dâm dục ta thấy
quanh mình hàng ngày - là hình ảnh thu nhỏ của dục đã bị đầu độc.
Dục cũng tồn tại trong con
vật bởi vì dục là nguồn gốc của cuộc sống, nhưng dâm dục chỉ tồn tại trong con
người. Không có dâm dục trong con vật. nhìn vào mắt con vật mà xem; bạn sẽ không
thấy thèm khát ở đó. Nhưng nếu bạn nhìn vào mắt con người bạn sẽ chẳng thấy gì
ngoài thèm khát; chẳng có gì ngoài ham muốn thô thiển về dục. Và do vậy, hôm
nay, con vật là đẹp theo một cách nào đó, nhưng không có giới hạn cho cái xấu
xa và mùi khó chịu của con người, con người kìm nén.
Xem như bước đầu tiên trong
việc giải phóng con người khỏi dâm dục, con cái - cả con trai lẫn con gái -
nên, như tôi đã bảo bạn hôm qua, nhận lấy chỉ bảo về chủ đề dục. Bên cạnh việc
bản thân chúng được trao cho tri thức này, khoảng cách xấu xí và không tự nhiên
giữa chúng nên bị xoá đi. Xem như vấn đề chính, chúng nên được đưa lại gần nhau
nhiều hơn; phân tách hoàn toàn là phi tự nhiên.
Đàn ông và đàn bà đã trở
thành các loài khác nhau. Bằng việc nhìn vào tách biệt này, vào cái ngăn nhân
tạo này giữa họ, thật khó tin rằng đàn ông và đàn bà thuộc cùng một kiểu, rằng
họ là hai phần của loài người. Nếu con trai và con gái được tự do đi lại trong
nhà không quần áo, như khi chứng thích, điều đó sẽ bóp chết ngay từ khi còn trứng
nước cái khiêu dâm và tò mò phi tự nhiên phát triển vào độ tuổi sau. Chúng ta
đã biết rất rõ cách thức dốt nát này về thân thể người khác để lộ ra trong tính
tò mò của con cái: nhìn cách thức tất cả con cái của con người văn minh đều
thích chơi trò «bác sĩ.»
Hơn nữa, tôi tự hỏi liệu
bạn có biết về một phong trào mới được khởi xướng bởi một phần xã hội Mĩ, tất
cả cái gọi là những người tôn giáo. Mục tiêu của họ là chấm dứt việc đưa chó,
mèo, ngựa và các con vật khác ra ngoài mà không mặc quần áo; họ muốn chúng được
mặc trang phục trước khi chúng được đưa vào phố. Ý tưởng đằng sau là ở chỗ con
cái có thể trở nên bị hư hỏng nếu chúng nhìn vào các con vật trần truồng. Thật
là nực cười mà nghĩ con cái bị làm hư hỏng bởi việc nhìn con vật ở truồng!
Nhưng dẫu sao đi chăng nữa, họ cũng đang hình thành một hiệp hội để cấm con vật
không quần áo đi trên phố. Nhìn bao nhiêu điều đã được làm để cứu vớt nhân
loại!
Cái gọi là các vị cứu tinh
là chính những người đang phá huỷ con người. Bạn đã bao giờ để ý con vật tuyệt
diệu và đẹp đẽ làm sao, cho dù không quần áo chưa? Thậm chí trong cái han trụi
của chứng, chứng vẫn hồn nhiên, đơn giản và chất phác. Bạn hiếm khi nghĩ về con
vật đang ở trần, và bạn sẽ chẳng bao giờ thấy con vật nào ở trần trừ phi bạn
che giấu cái trần trụi của riêng mình ở bên trong bạn! Nhưng những người sợ hãi
và những người hèn nhát sẽ cố gắng bất kì cái gì và mọi thứ để bù lại cho nỗi
sợ của riêng mình về cái trần trụi đó. Bởi vì việc phát minh ra những phương
thuốc như vậy, nên loài người đang thoái hoá, từng ngày một.
Con người nên đơn giản đến
mức người đó có thể đứng lên trần trụi, không mặc quần áo, hồn nhiên và tràn
đầy phúc lạc. Một người như Mahavira đảm nhận việc đứng đấy không quần áo và,
cũng như vậy, mọi người nên trau dồi tâm tính để người đó cũng có thể đứng đấy
không quần áo. Mọi người, cái gọi là người tôn giáo, nói rằng Mahavữa đã vứt bỏ
quần áo, rằng ông ấy đã bỏ áo quần mặc. Nhưng tôi phủ nhận điều này. Chitta của
ông ấy, tâm thức của ông ấy, trở nên trong trẻo, hồn nhiên - thuần khiết như
tâm thức của trẻ con - đến mức ông ấy đứng dậy, trần truồng, đối diện với thế
giới. Khi không có gì còn lại để che giấu, con người có thể đặt mình trần
truồng.
Con người che đậy minh bởi
vì người đó cảm thấy có cái gì đó bên trong cần bưng bít đi. Nhưng khi không có
gì để che giấu cả, người ta thậm chí không cần mặc quần áo vào. Có nhu cầu lớn
cần loại thế giới mà mọi cá nhân sẽ không thấy mặc cảm, thuần khiết của tâm trí
và sự chân thành đến mức người đó sẽ có khả năng vứt bỏ quần áo mình đi.
Tội ác ở đâu? Cái gì là
nguy hiểm trong việc ở trần truồng?
Vấn đề sẽ khác nếu quần áo
được mặc bởi các lí do khác, nhưng nếu chứng được mặc chỉ bắt nguồn từ nỗi sợ ở
trần của người ta thế thì điều này là đáng khinh bỉ. Mặc quần áo bởi vì việc
kinh sợ ở truồng là chỉ dẫn về sự ở truồng còn lớn hơn, là bằng chứng cho tâm
trí ô uế. Nhưng ngày nay chúng ta thấy mặc cảm thậm chí với việc mặc quần áo,
dường như là chúng ta vẫn chưa có khả năng để cọ rửa đi sự tồn tại của cái trần
truồng bên trong của chúng ta.
A! Thượng đế ngâỵ thơ thế!
Ngài có thể dễ dàng thế để tạo ra con người với quần áo.
Nhân tiện, xin đừng kết
luận rằng tôi chống lại việc mặc quần áo. Nhưng tôi không ngần ngại tuyên bố
rằng quần áo được mặc do nỗi sợ về việc ở truồng thì không che được cái trần
truồng; thay vì thế, chúng lại để hở nó ra. Nhận biết phi tự nhiên này về sự
trần truồng là hèn hạ, và thoái hoá. Và nhận biết này đã được qui định theo
truyền thống xã hội lâu dài.
Một người có thể dường như
ở trần dù mặc quần áo và người ở trần có thể dường như là có mặc quần áo. Có
cần phải nói chi li thêm nữa về điểm này sau khi thấy những quần áo hiện đại,
bó sát da cho cả đàn ông và đàn bà hay không? Đây là kết quả của ham muốn không
được thoả mãn để liếc mắt dâm đãng và để phô trương thân thể. Nếu đàn ông và
đàn bà đã quen thuộc về thân thể của nhau thì quần áo sẽ tự động phục vụ cho
mỗi mục đích để bảo vệ thân thể. Nhưng hỡi ôi, ngày nay, quần áo lại được thiết
kế để khêu gợi tình dục.
Nen văn minh của con người
đang đi tới đâu khi quần áo không còn là quần áo mà là cái trợ giúp cho tình
dục? Đây là lí do tại sao tôi lại chủ trương để cho con cái vẫn còn ở trần cho
tới độ tuổi nào đó. Chúng nên hiểu rằng sự cần thiết của quần áo phải giải
quyết với cái gì đó khác hơn là dục!
Hơn nữa, khái niệm về ở
trần là khái niệm chủ quan. Với tâm trí đơn giản, với tâm trí hồn nhiên, việc ở
trần không chướng tai gai mắt; nó có cái đẹp riêng của nó. Nhưng mãi cho tới
nay, con người đã được nuôi dưỡng bằng chất độc, và dần dần, với việc chuyển
thời gian, chất độc này đã lan khắp từ cực này của sự tồn tại của người đó sang
cực khác. Hậu quả là, thái độ của chúng ta đối với việc ở trần hoàn toàn phi tự
nhiên.
Khi tôi nói về chủ đề này
vào buổi gặp đầu tiên, tại thính phòng Bharatiya Vidya Bhavan, một bà đã tới
tôi và nói, «Tôi rất lấy làm khó chịu.
Tôi rất bực ông. Dục là chủ đề gây tai tiếng. Dục là tội lỗi. Tại sao ông nói
về nó dài thế? Tôi thực sự coi thường dục.»
Bây giờ, bạn thấy đấy, bà
này coi thường dục mặc dầu bà ấy là người đàn bà đã có chồng với con trai và
con gái. Làm sao bà ấy có thể yêu chồng mình, người đưa bà ấy vào dục được? Làm
sao bà ấy có thể yêu con cái, những đứa đã được sinh ra từ dục? Thái độ của bà
ấy với cuộc sống tràn ngập những chất độc; tình yêu của bà ấy sẽ vẫn còn là độc
tố. Và do vậy nhất định có kẽ nứt sâu và cơ bản giữa người đàn bà này và chồng
bà ấy. Cũng sẽ có hàng rào gai giữa bà ấy và con bà ấy bởi vì con cái, với bà
ấy, là kết quả của tội lỗi. Mối quan hệ giữa bà ấy và chồng bà ấy có khuynh
hướng tội lỗi; bà ấy bị ám ảnh bởi phức cảm mặc cảm vô ý thức những nơi có liên
quan tới dục. Liệu người ta có thể sống trong hài hoà với tội lỗi được không?
Những người phỉ báng dục đã
làm rối loạn cuộc sống gia đình của mọi người. Thay vì ban cho bất kì loại giải
thoát nào, thái độ đập phá chống lại dục này đã gây tác hại sâu sắc. Người gặp
phải rào chắn vô hình giữa bản thân minh và vợ mình thì không bao giờ có thể
cảm thấy hài lòng với cô ấy: anh ta sẽ nhìn quanh để tìm người phụ nữa khác;
anh ta sẽ đi tới gái mãi dâm. Tất cả phụ nữ trên thế giới đều có thể đã giống
như người chị và người mẹ anh ta mà anh ta đã nhận được tràn đầy sự biết ơn ở
nhà, nhưng bởi vì sự thiếu vắng của nó, nên anh ta bây giờ sẽ thấy tất cả phụ
nữ đều là vợ tiềm năng, bao giờ cũng theo sau cái gì đó. Điều đó là tự nhiên; nó
phải là như vậy. Anh ta tìm ra chất độc, sự kinh tởm, và nói về tội lỗi nơi anh
ta đáng phải được ban cho phúc lạc, ban cho cực lạc và chân thành. Nhu cầu cơ
bản của anh ta không phải là gặp gỡ ở nhà và do vậy anh ta lang thang ở mọi
nơi, tìm kiếm để thoả mãn trong mọi xó xỉnh và ngóc ngách. Và còn cái gì con
người không phát minh ra để đáp ứng cho các nhu cầu cơ sở đó! Bạn sẽ kinh ngạc
nếu chúng ta cố gắng liệt kê ra tất cả mọi phương sách người đó đã đạt tới.
Con người đã đi ra khỏi con
đường của minh để phát minh ra nhiều, nhiều thủ đoạn nhưng người đó chưa bao
giờ nghĩ một cách cẩn thận về nhược điểm cơ bản. Bây giờ cái vốn là dòng sông
của tình yêu đã trở thành vũng dục, và cái vũng này bị đầu độc. Và khi có cảm
giác sắc nhọn về tội lỗi, về chất độc; khi có cảm giác ngần ngại giữa chồng và
vợ, mặc cảm này đi tới chấm dứt khá năng của bất kì trưởng thành nào trong cuộc
sống cùng nhau của họ.
Như tôi hiểu nó, nếu chồng
và vợ có thể cố gắng đánh giá cao dục trong hài hoà và với hiểu biết tình yêu
lẫn nhau, với cảm giác về niềm vui thuần khiết và không có bất kì ý nghĩa u tối
nào, thế thi mối quan hệ của họ có thể được biến đổi, được nâng cao. Và sau
điều này, có thể là người vợ, cũng người vợ ấy, sẽ có đó, nhưng cô ấy sẽ ở dưới
dạng người mẹ!
Tôi đã nghe nói rằng vợ của
Gandhi, Kasturba, có lần tới Ceylon cùng với Gandhiji và nhóm ông ấy. Trong
diễn văn chào mừng của minh, người chủ nói thật là rất may phúc họ mới có vinh
dự có được sự hiện diện của bà mẹ Gandhiji, người đi cùng với ông Gandhi trong
chuyến đi của ông ấy và được ngồi bên cạnh ông ta. Viên thư kí của Gandhiji lấy
làm bối rối. Lỗi lầm là của ông ta; trước đó ông ta đáng phải giới thiệu các
thành viên trong nhóm cho người tổ chức. Nhưng thế rồi quá trễ: Gandhiji đã đối
diện với chiếc microphone và đã bắt đầu bài nói chuyện của mình. Viên thư kí sợ
việc khiển trách ông ta có thể phải chịu từ Gandhiji sau đó, nhưng anh ta không
biết rằng Gandhiji không giận anh ta chút nào, bởi vì người phụ nữ có khả năng
thay đổi từ vợ sang mẹ quả thực rất hiếm hoi.
Gandhiji nói, «Đây là sự trùng lặp hạnh phúc mà người bạn
vừa giới thiệu tôi, bởi nhầm lẫn, đã nói ra chân lí. Trong vài năm trước đây
Kasturba đã thực sự trở thành mẹ tôi. Vào một thời bà ấy đã là vợ tôi, nhưng
bây giờ bà ấy là mẹ tôi.»
Cùng nhau, điều này có thể
xảy ra. Nếu chồng và vợ góp thêm chút ít nỗ lực vào xem xét cuộc sống tình dục
của mình với nhau, họ có thể trở thành bạn bè và có thể giúp lẫn nhau biến đổi
dục. Và cái ngày chồng và vợ thành công trong việc biến đổi dục, cảm giác biết
cm tràn ngập được sinh ra giữa họ. Nhưng ngày nay chẳng có gì ngoài thù hận
tinh tế và bẩm sinh giữa chồng và vợ. Ẩu đả thường xuyên tồn tại; chưa bao giờ
có tình bạn chân thành cả.
Cảm giác biết om sâu sắc
được sinh ra giữa chồng và vợ khi mỗi người trở thành trung gian để biến đổi
ham muốn dục của người kia. Tình bạn thực sự nở hoa khi họ trở thành bạn tình
trong uy thế, trong siêu việt trên dục. Cái ngày đó, người đàn ông tràn ngập
với kính trọng người đàn bà bởi vì cô ấy đã giúp cho anh ta tìm được giải thoát
khỏi thèm khát; cái ngày đó, người đàn bà tràn ngập lòng biết om với người đàn
ông vì việc giải phóng cho cô ấy khỏi dam mê. Từ ngày đó trở đi, họ sống trong
hài hoà thực sự của tình yêu, và không còn trong thèm khát nữa. Đây là chỗ bắt
đầu của cuộc hành trình mà chồng trở thành thượng đế đối với vợ còn vợ trở
thành thượng đế đối với chồng. Nhưng khả năng đó đã bị đầu độc.
Tôi đã nói hôm qua rằng
thật khó tìm ra kẻ thù nào với dục lớn hom tôi. Tôi không ngụ ý ám chỉ rằng tôi
lạm dụng hay chỉ trích dục; tôi nói điều đó một cách rõ ràng, như một hướng dẫn
về chiều hướng của siêu việt, như một chỉ dẫn về cách thức thèm khát có thể
được biến đổi. Tôi là kẻ thù của dục theo nghĩa là tôi thiên về biến đổi than
thành kim cưomg. Tôi muốn biến đổi dục.
Làm sao điều này có thể
được thực hiện? Thủ tục là gì?
Tôi nói rằng cánh cửa khác
phải được mở ra, cánh cửa mới.
Dục không ngẩng đầu lên
ngay khi đứa trẻ được sinh ra. Thân thể thu thập năng lượng, các tế bào thu lấy
sức mạnh, và vẫn phải có thời gian trước khi sự phát triển đầy đủ của thân thể
xảy ra. Năng lượng sẽ chậm rãi tập hợp bản thân nó, và thế rồi nó sẽ mở tung
cánh cửa đã từng đóng trong mười bốn năm đầu - và đây là việc giới thiệu cho
đứa trẻ vào thế giới của dục.
Một khi cái cửa này được mở
ra thì rất khó để mở cánh cửa mới. Bởi vì bản chất của lực sống, sinh lực hoàn
toàn của người ta, toàn bộ năng lượng của người ta, xô đi theo hướng nó đã buộc
mở ra. Một khi sông Hằng đã lên đường nó tiếp tục chảy đi; nó không tìm kiếm
quá trình mới hàng ngày nữa. Nước tươi mát có thể đổ xuống hàng ngày, nhưng nó
sẽ tiếp tục chảy qua cùng kênh đó. Tương tự, sinh lực của con người tìm ra quá
trình cho bản thân nó và thế rồi nó tiếp tục du hành trên đó.
Nếu con người định chữa
tình dục, điều rất quan trọnglà phải tạo ra lối mở mới trước khi cánh cửa dục
mở ra. Lối mở mới đó là thiền.
Mỗi đứa trẻ trong những năm
non trẻ của mình nên được dạy thiền, nên được hướng dẫn vào thiền. Cáo giáo lí
sai chống lại dục nên bị bãi bỏ, và thiền nên được dạy. Thiền là cánh cửa tích
cực; nó là lối mở cao hơn. Việc chọn lựa giữa dục và thiền phải được thực hiện,
và thiền là phương án cao siêu hơn. Đừng kết án dục; dạy cho con cái thiền.
Đối lập với dạy con cái về
dục chỉ làm cảnh giác chủng với sự tồn tại của nó. Và đây là cách tiếp cận nguy
hiểm cao độ. về sau, điều đó dẫn tới những đồi bại của dâm dục chưa chín muồi.
Vậy mà, khi không cánh cửa nào mở ra, khi cả hai cánh cửa đều đóng lại, khi
năng lượng vẫn còn an toàn, thi không cánh cửa nào có thể được đẩy mở ra -
nhưng việc thường xuyên nói lải nhải chống lại dục thì cũng giống như việc gõ
vào cánh cổng của dục.
Cây non mềm mỏng có thể
được uốn theo bất kì hướng nào; nó cũng có thể cúi mình khiêm tốn theo cách
riêng của nó. Nhưng khi nó lớn lên, nó cứng rắn lại. Nếu bạn cố gắng uốn nó thế
thi, nó sẽ trở thành méo mó, nó sẽ bị gẫy. Trường hợp ở đây cũng như vậy.
Rất khó để đạt tới trạng
thái thiền khi người ta già hơn. Người già cố gắng thiền cũng giống như gieo
hạt mầm sau khi mùa vụ đã qua. Hạt mầm của thiền có thể dễ dàng được gieo trong
con cái, nhưng con người, như người đó hiện hữu, chỉ gieo mối quan tâm vào
thiền vào quãng cuối đời mình. Thế thì người đó áy náy về thiền - khi năng
lượng của người đó đã suy sụp, khi tất cả những khả năng tiến bộ đã khô héo.
Chỉ thế thì người đó mới hỏi về thiền và yoga. Người đó muốn đổi mới bản thân
mình khi cái chết đã an bài, khi sự biến đổi quả thực là rất khó khăn. Người
với một chân trong nấm mồ mới hỏi liệu còn có thể làm được gì để đạt tới tự do
thông qua thiền. Điều này thật là lạ. Ý định này hoàn toàn điên khùng.
Hành tinh này có thể chẳng
bao giờ an bình được chừng nào chúng ta còn chưa dấn thân vào cuộc hành trình
trong thiền tại mọi tâm trí trẻ tuổi. Nhưng cũng thật là vô ích để thử điều này
với những người đã ở cuối của con đường, với những người đang vào buổi tối của
cuộc đời mình. Ngay cả nếu như điều đó được họ dự định thì điều đó cũng đòi hỏi
nỗ lực khổng lồ và, cũng vậy, sẽ không nhiều tru thế cho lắm. Nhưng điều đó có
thể được đạt tới nếu như điều đó đã được cố gắng sớm hơn trong cuộc đời, khi nó
không cần nhiều nỗ lực đến thế.
Cho nên bước đầu tiên hướng
tới biến đổi dục là bắt đầu việc thiền trong trẻ nhỏ - huấn luyện chúng bình
thản và gìn giữ ý định của riêng chúng, dạy chúng im lặng và làm sáng tỏ cho
chúng về trạng thái vô trí. Mặc dầu trẻ con đã bình thản và an bình theo chuẩn
của người lớn, nếu chúng được hướng dẫn theo đúng hướng và được dạy thực hành
trầm lặng và thanh thản cho dù một chút xíu mỗi ngày, thì cánh cửa mới sẽ mở ra
trước khi chúng tới độ tuổi mười bốn. Thế thì, khi dục ngẩng đầu lên, khi năng
lượng này phụt lên và nó tràn đỉ khắp, nó sẽ chảy qua cánh cửa mới đã được mở
ra. Chúng đã hiểu thanh thản, phúc lạc, niềm vui, cái vô thời gian và vô ngã
của thiền từ lâu trước khi biết tới kinh nghiệm dục. Quen thuộc này sẽ ngăn cản
năng lượng của chúng khỏi đi vào trong những kênh sai; nó sẽ hướng theo con
đường phải.
Thay vì dạy về việc làm yên
tĩnh của thiền, chúng ta dạy cho con cái ghét dục. «Dục là tội lỗi, dục là bẩn thỉu,» chúng ta nói. Chúng ta bảo nó là
xấu xí và tồi tàn; chúng ta nói rằng nó là địa ngục. Nhưng chỉ việc gọi tên thì
chẳng làm được bất kì cái gì để thay đổi tình huống thực tại. Ngược lại, con
cái trở nên tò mò; chúng muốn biết nhiều về cái địa ngục này, về con quỉ này,
về cái thứ bẩn thiu này làm cho bố mẹ chứng và thầy cô giáo chúng hoảng sợ và
kinh hãi. Chúng nhìn vào bất kì đâu và mọi ncri để tìm câu trả lời; chúng áy
náy để hiểu chấn động này tất cả là gì.
Và trong một thời kì rất
ngắn, con cái đi tới nhận ra rằng bản thân bố mẹ chúng cũng đang dính líu vào
chính cùng việc theo đuổi đó; ngày và đêm, bố mẹ chúng đang làm chính cái điều
chúng không được phép biết gì. Kết quả tức khắc và tự động của khám phá này về
sự kiện đó là chấm dứt lòng ngưỡng mộ của chúng với bố mẹ chúng. Nền giáo dục
hiện đại không chịu trách nhiệm, như nó nói chung được tin tưởng, đối với việc
giảm đi rất nhiều trong kính trọng bố mẹ; bản thân bố mẹ đáng trách về điều
này. Con cái nhanh chóng quan sát thấy nghịch cảnh; chúng nhanh chóng đi tới
nhận ra rằng bố mẹ chúng hoàn toàn bị nhận chìm trong chính cái điều mà chúng
đã được dạy phải ghét bỏ.
Con cái là người quan sát
rất sắc bén. Chúng thấy rằng cuộc sống ban đêm của bạn khác với cuộc sống ban
ngày của bạn, rằng những lời thuyết giảng của bạn và thực hành của bạn khác
nhau xa thế. Chúng thấy điều vẫn cứ diễn ra trong nhà. Mặc cho điều ông bố gọi
là «bẩn thỉu» và bà mẹ gọi là «xấu xí,» chứng thấy rằng cùng điều đó
đang được làm ở nhà. Chứng hiểu điều đang xảy ra và, đây là trường hợp, mất tất
cả sự kính trọng vào bố mẹ mình. Bố mẹ thủ đoạn, đạo đức giả, con cái kết luận.
Và nhớ, con cái đã mất niềm
tin của chứng vào bố mẹ thì sẽ không bao giờ có khả năng phát hiển bất kì niềm
tin nào vào Thượng đế. Con cái có thoáng nhìn đầu tiên của chúng vào niềm tin,
thoáng nhìn đầu tiên của chứng vào Thượng đế, là thông qua bố mẹ chúng. Nếu
niềm tin này bị tan vỡ, chúng chắc chắn sẽ trở thành kẻ vô thần. Con cái có
cách nhận diện đầu tiên của chúng về Thượng đế trong sự ngay thẳng của bố mẹ
chúng, và nếu điều đó chứng tỏ là ảo tưởng, thì sẽ khó để hướng những đứa trẻ
đó về Thượng đế. Mối quan hệ giữa chúng và Thượng đế sẽ bị tan vỡ bởi vì thiên
thần đầu tiên của chúng đã phản bội chúng, bởi vì mẹ và bố chúng đã chứng tỏ là
không đáng kính trọng.
Ngày nay, thế hệ hiện đại,
hẻ hon phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, chế giễu ý tưởng về giải thoát và gọi
tôn giáo là hò bịp, không phải bởi vì chúng đã tìm kiếm cho bản thân chúng và
do đó đã đi tới kết luận của riêng chúng, bởi vì sự phản bội này của bố mẹ
chúng. Bố mẹ chúng đã đầy ải chúng vào cuộc sống của chủ nghĩa hoài nghi.
Cái cảm giác này về sự phản
bội đã tới bởi vì dục đã được người lớn tuổi biểu thị sai. Đáng phải giải thích
cởi mở cho chúng rằng dục là một phần của cuộc sống, rằng chúng ta tất cả đều
được sinh ra từ dục, và rằng dục cũng là một phần của cuộc sống chúng. Điều này
sẽ giúp cho chúng hiểu hành vi của bố mẹ chúng trong cảnh quan đứng đắn, và khi
chúng trưởng thành và kinh nghiệm cuộc sống cho chính mình thi chúng sẽ tràn
đầy với kính trọng về tính trung thực của bố mẹ chúng. Cái bắt đầu, trong đứa
trẻ, về niềm tin này và kính trọng này sẽ đặt nền tảng cho cuộc sống tôn giáo.
Con cái ngày nay nghi ngờ rằng bố mẹ chúng là những kẻ đạo đức giả; do đó có va
chạm ý thức hệ hiện đại giữa các thế hệ trẻ và già. Việc ngăn chặn dục đã làm
phân tách chồng với vợ và đã đặt con cái chống lại bố mẹ chúng.
Chúng ta không cần kìm nén
này về dục; việc làm sáng tỏ dục là nhu cầu của giờ này. Ngay khi con cái chín
muồi, ngay khi chúng đòi hỏi, bố mẹ nên đặt ra các sự kiện chính của cuộc sống
trước chúng theo một cách có thể chấp nhận được. Điều này nên được làm trước
khi con cái trở thành tò mò không cần thiết hay có hại, trước khi chúng bắt đầu
nuôi dưỡng sự hấp dẫn không lành mạnh có thể dẫn chúng tới việc thoả mãn tính
tò mò của chúng trong những chỗ sai. Ngoài ra, như trường hợp ngày nay, con cái
tìm ra điều chúng muốn biết, nhưng chúng tìm nó từ những người sai, chúng tìm
nó từ những điều kiện bất thường và qua những thực hành nguy hiểm. Những cách
thức này là bất lợi và gây tác hại. Các kết quả gây đau đớn và hành hạ chúng
trong phần còn lại cuộc đời chúng, và cuối cùng bức tường xấu hổ và bí mật tồn
tại giữa con cái và bố mẹ chúng.
Bố mẹ không bao giờ biết về
cuộc sống dục của con cái mình, cũng như con cái dốt nát về cuộc sống dục của
bố mẹ chúng. Xa lánh nẩy sinh từ trò chơi trốn tìm này quả thực rất nguy hiểm.
Con cái phải được giáo dục đúng đắn về dục; chúng phải được trao cho việc giáo
dục đúng đắn.
Thứ hai là, con cái nên
được dạy về thiền - cách duy trì bình thản, thanh thản, im lặng; cách để đạt
tới trạng thái vô trí. Trẻ con có thể học hoàn thành điều này rất, rất nhanh
chóng. Mọi gia đình nên có chưcmg trình theo lịch để giúp cho con cái đi vào trong
im lặng. Và điều đó sẽ chỉ có thể, khi bạn, như bậc bố mẹ, cũng thực hành cùng
chúng. Một giờ hàng ngày ngồi im lặng nên là yêu cầu trong mọi gia đình. Người
ta thậm chí còn nên cắt bỏ một bữa ăn nếu cần thiết, nhưng một giờ im lặng thì
phải được tôn trọng bằng mọi giá. Thật là sai mà gọi ngôi nhà là gia đình nơi
một giờ im lặng không được tôn trọng hàng ngày. Nó thậm chí không thể được gọi
là gia đình.
Một giờ im lặng mỗi ngày sẽ
gìn giữ năng lượng. Và thế thì, vào độ tuổi mười bốn, một con sóng sẽ dâng lên
và mở tung cánh cửa của thiền - trạng thái đó của thiền nơi con người chạm tới
cái vô thời gian và vô ngã, nơi người đó thoáng thấy linh hồn, nơi người đó
thoáng thấy điều Tối thượng. Sự gặp gỡ với thượng đỉnh đó trước khi kinh nghiệm
dục sẽ đặt dấu chấm hết cho cái xô đuổi điên khùng theo dục; năng lượng sẽ tìm
ra con đường tốt hơn, phúc lạc hơn, cao quí hơn.
Đây là giai đoạn thứ nhất
trong quá trình vô dục: siêu việt lên dục. Và con đường là thiền.
Nền tảng thứ hai là yêu.
Con cái nên được dạy về yêu từ hồi còn thơ. Nỗi sợ thông thường là ở chỗ việc
dạy yêu sẽ đưa con người vào trong mê cung của dục. Nhưng nỗi sợ này không có
căn cứ. Việc dạy về dục có thể dẫn con người tới yêu, nhưng việc dạy về yêu sẽ
không bao giờ lôi người đó vào trong dâm dục cả. Chân lí là xung đột với niềm
tin nói chung. Năng lượng dục được biến đổi thành tình yêu.
Con người có khả năng trải
rộng tình yêu cho những người quanh người đó theo tỉ lệ trực tiếp với tình yêu
phát triển bên trong người đó. Những người trống rỗng tình yêu trút đầy với
dục. Yà họ vẫn còn là tâm trí hướng dục. Người càng ít yêu, người đó càng nhiều
ghét; càng ít tình yêu có trong cuộc sống con người, cuộc sống người đó sẽ càng
nhiều thù hận. Và những người trống rỗng tình yêu tràn đầy với ghen tuông theo
cùng mức độ. Người càng ít tình yêu người đó lại càng biết nhiều xung đột.
Người lo nghĩ và bất hạnh tỉ lệ trực tiếp với việc thiếu tình yêu trong cuộc
sống của họ. Và người càng bị nhận chim nhiều bởi lo nghĩ, ghen tị, phù phiếm,
nói dối và những điều như vậy, năng lượng của người đó càng sẽ bị yếu đi nhiều,
sẽ trở thành ẻo lả và nhu nhược; người đó sẽ căng thẳng vào mọi lúc. Và lối ra
duy nhất cho nhóm xúc động thô thiển, thô bỉ, thấp kém, đê tiện này là dục.
Yêu làm biến đổi năng
lượng. Yêu là linh động, sáng tạo, tuôn chảy; nó hoàn thành. Và lòng biết om
yêu còn nhiều sâu sắc hơn và nhiều giá trị hơn là cái thu được qua dục. Người
biết tới sự mãn nguyện đó sẽ không bao giờ tìm kiếm bất kì cái gì thay thế,
cũng hệt như người có được đồ châu báu sẽ chẳng bao giờ tìm đá cuội.
Nhưng người tràn đầy với
căm ghét không bao giờ có thể tìm ra sự mãn nguyện. Người ấy bao giờ cũng bất
ổn; người ấy phá huỷ mọi thứ trên con đường của mình. Và việc phá huỷ không bao
giờ đem lại hạnh phúc; chỉ sáng tạo mới có thể mưa rào lên con người với cảm
giác biết ơn. Người đầy những ghen tị đang trong giao tranh và cạnh tranh,
nhưng là như điều này thì chẳng bao giờ đem lại sự mãn nguyện cả. Người hung
hăng chỉ xâm lấn lên người khác.
Phúc lạc chỉ có thể đạt tới
được bằng việc cho, không bao giờ bởi việc lấy. Níu bám và tích trữ mọi thứ
thấy được sẽ không bao giờ đem lại an bình cho tâm trí, nhưng nó có thể có được
bằng việc cho, bằng việc phân phát phúc lành. Người tham vọng nhảy hết chỗ này
sang chỗ khác; người ấy chưa bao giờ an bình - nhưng người không theo đuổi
quyền lực mà theo đuổi tình yêu, những người phân phát tình yêu ở bất kì đâu và
ở mọi ncri, thì sống trong phúc lạc cao quí. Người tràn đầy tình yêu, người ấy
ở chiều sâu của sự mãn nguyện, chiều sâu của sự thoả mãn, của niềm vui, của cảm
giác đạt tới mà người ấy sẽ tìm thấy trong trung tâm trái tim minh. Người chứng
ngộ như vậy sẽ không bận tâm tới dục; người đó thậm chí sẽ không phải cố gắng
để không nhìn vào chiều hướng của nó. Bởi vì sự mãn nguyện và phúc lạc được tìm
thấy trong dục là có sẵn mãi mãi cho người đó từ tình yêu.
Khẩu hiệu tiếp: hãy trưởng
thành tới sự tràn đầy của tình yêu. Chúng ta nên kính yêu tình yêu; chúng ta
nên ban tặng tình yêu; chúng ta nên sống trong tình yêu. Nhưng yêu người khác
một mình thì không phải là cái tên cho trò chơi này; được hiến dâng cho tình
yêu mới là làm đầy toàn thể nhân cách của người ta với tình yêu. Tôi đang nói
về việc giáo dục toàn bộ trong việc yêu. Chúng ta nên có khả năng nhặt lên một
hòn đá cứ như là chúng ta đang nâng người bạn; chúng ta nên có khả năng bắt tay
với kẻ thù cứ như là chúng ta cầm tay của người bạn.
Một số người cầm giữ những
thứ vật chất với sự chăm chú yêu thương, trong khi một số người lại dành cho
người khác một loại đối xử mà thậm chí không nên trao cho những vật không sống.
Với người bận tâm với căm ghét, nhân loại không khá hơn các đối tượng vô tri vô
giác; nhưng người tràn đầy tình yêu thậm chí còn truyền đạt một tính cá nhân,
một nhân cách, cho mọi thứ người đó chạm tới.
Một lữ khách có học có lần
tới thăm một thầy tu, nhà sư khổ hạnh, vô dục. Bởi lí do nào đó người này thấy
khó chịu, có lẽ bởi vì cuộc hành trình khó khăn, và người đó giận dữ tháo đôi
giầy ra, quăng chúng vào góc nhà và xô cửa mở bằng tiếng động mạnh.
Trong giận dữ, người này đã
cởi đôi giầy của mình ra như thể giầy là kẻ thù tồi tệ nhất của minh. Người ấy
thậm chí sẽ mở cửa ra dường như có sự thù địch lớn lao giữa người đó và cái
cửa. Người này lao qua cửa mở, đi vào, và bầy tỏ sự kính trọng của minh với ông
thầy tu.
Ông thầy tu nói, «Không, ta không chấp nhận sự kính trọng của
anh. Trước hết hãy đi ra xin lỗi cánh cửa và đôi giầy di đã.»
«Có chuyện gì sai với thầy vậy?» người đó hỏi. «Xin lỗi cánh cửa sao? Và với cả đôi giầy nữa sao? Tại sao? Chứng có
sống không?»
Ông thầy tu đáp, «Anh đã không xem xét rằng khi nào anh đem sự
giận dữ của minh ra khỏi các vật vô tri vô giác kia. Anh ném mạnh đôi giầy
xuống cứ dường như chúng đã phạm tội gì đó, và anh đã mở cửa theo cách nó dường
như là kẻ thù của anh. Khi anh có thể nhận ra tính cá nhân của chúng bằng việc
rút cơn giận của anh ra khỏi chúng, thì anh cũng nên được chuẩn bị để xin lỗi
chúng. Xin anh hãy đi ra trao cho chứng lời xin lỗi của mình. Bằng không ta
không có ý sẵn sàng tiếp tục cuộc nói chuyện này với anh.»
Lữ khách hình dung ra rằng
vì mình đã tới từ xa để gặp ông thầy tu lừng lẫy này, cho nên sẽ là lố bịch mà
chấm dứt việc đối thoại với vấn đề tầm thường thế, cho nên anh ta đi tới đôi
giầy và với tay khoanh trước ngực, nói, «Các
bạn, tôi xin lỗi về sự xấc láo của mình.» Với cánh cửa anh ta nói, «Xin lỗi. Thật là sai lầm đẩy cửa như vậy
trong giận dữ.»
Một khoảnh khắc tuyệt vời
cho anh ta!
Trong hồi kí của mình lữ
khách này đã viết rằng ban đầu anh ta cảm thấy rất lố bịch, nhưng rồi khi anh
ta đã kết thúc việc đưa ra lời xin lỗi thì cái gì đó mới đã rạng lên trong anh
ta: anh ta cảm thấy bình thản thế, thanh thản thế, an bình thế. Điều đó vượt ra
ngoài những tưởng tượng hoang dại nhất mà con người có thể cảm thấy tĩnh lặng
thế, bình tĩnh thế và vui vẻ thế chỉ bằng việc xin việc tha thứ của cánh cửa và
đôi giầy.
Sau khi anh ta đã đưa ra
lời xin lỗi, anh ta đi vào và ngồi xuống bên cạnh ông thầy tu, ông này bắt đầu
cười và nói, «Bây giờ thì được rồi. Bây
giờ anh đã hoà hợp. Bây giờ chúng ta có thể nói chuyện. Bây giờ anh đã bầy tỏ
được tình yêu nào đó và không nặng gánh. Bây giờ có thể có mối quan hệ giữa
chúng ta.»
Nguyên tắc này không chỉ
cho tình yêu riêng con người, nó là vấn đề về tràn ngập với tình yêu.
Nói người ta phải yêu mẹ
mình là sai; đấy là sự xuyên tạc. Nếu người bố yêu cầu đứa con phải yêu anh ta
chỉ bởi vì anh ta là bố thì đấy là sự lừa dối; anh ta đang đưa ra lí do về tình
yêu. Tương tự, nếu người mẹ bảo đứa con mình là nó phải yêu mình bởi lí do đơn
giản là cô ta là mẹ, đấy là sự lừa gạt. Tình yêu có dòng chữ «bởi vì» và «do đó» gắn kèm với nó là bị đặt tên sai. Tình yêu nên vô động cơ;
nó không nên bị sa lầy vào những lí do. Người mẹ nói, «Mẹ chăm sóc con; mẹ nuôi nấng con, do đó hãy yêu mẹ.» Cô ấy đang
đưa ra lí do. Và do đó, tình yêu chấm dứt. Nếu đứa trẻ bị bó buộc, nó có thể
phải bầy tỏ một cách miễn cưỡng sự yêu mến nào đó bởi vì cô ấy là mẹ nó, nhưng
mục đích của việc dạy tình yêu lại không phải là bắt buộc đứa trẻ phải bầy tỏ
tình yêu vì lí do nào đó, mà để tạo ra môi trường trong đó đứa trẻ sẽ tràn đầy
tình yêu.
Cần phải làm cho bạn hiểu
rằng sự trưởng thành của đứa trẻ, toàn bộ nhân cách của nó, toàn bộ tương lai
của nó, đều phụ thuộc vào niềm vui này ở việc yêu mến bất kì ai hay bất kì cái
gì nó gặp - dù đó là tảng đá, con người, đoá hoa, con vật, bất kì cái gì. Vấn
đề không chỉ là yêu con vật hay đoá hoa hay mẹ nó hay ai đó khác, toàn bộ vấn
đề là để cho đứa hẻ được tràn đầy tình yêu. Phụ thuộc vào điều này không chỉ
tương lai của nó, mà cả tương lai của nhân loại. Khả năng cực kì lớn lao cho
việc nở hoa của niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống con người tuỳ thuộc vào
bao nhiêu tình yêu có đấy bên trong người đó. Người đang yêu cũng có thể được
giải phóng khỏi tình dục. Nhưng chứng ta không ban tặng tình yêu; chúng ta
không sốt sắng vì tình yêu.
Bạn có cho rằng người ta có
thể yêu người này và ghét người khác cùng lúc được không? Không, điều đó là
không thể được. Người đang yêu, cho dù khi người đó một minh, cũng vẫn tràn đầy
tình yêu bởi vì tình yêu là bản tính của người đó; nó chẳng liên quan gì tới
mối quan hệ của bạn với người đó. Người giận dữ thì giận dữ khi người đó một
minh, quan sát một người như vậy khi người đó một mình và bạn sẽ cảm thấy cái
giận dữ của người đó cho dù người đó có thể không biểu lộ cái giận dữ của minh
cho bất kì ai riêng vào lúc đó. Toàn bộ bản thể người đó đơn giản tràn ngập với
căm ghét, với giận dữ. Ngược lại, nếu bạn gặp một người tràn đầy tình yêu, thì
bạn có thể cảm thấy người đó tràn đầy với tình yêu khi người đó một mình.
Hoa nở bung trong rừng rậm
lan toả hưomg thom của chúng dù có ai đó ở đó để tán thưởng hay không, dù có ai
đi qua đó hay không. Toả hưcmg therm là bản tính của hoa. Bạn đừng có ảo tưởng
rằng hoa tiết ra hưomg thorm chỉ để dành cho bạn!
Mọi người nên đom giản tràn
đầy tình yêu; nó không nên phụ thuộc vào «với
ai đó.» Nhưng người yêu muốn người được yêu chi yêu mình, không yêu ai
khác. «Hãy yêu mình anh thôi,» anh ta
nói, nhưng anh ta không biết rằng những người không thể yêu được tất cả thi
cũng không thể yêu được một người. Vợ nói chồng phải yêu chi mình cô ấy và
không được bầy tỏ sự yêu mến với bất kì ai khác, nhưng cô ấy không hiểu rằng
tình yêu như vậy là dối trá và rằng cô ấy đã làm cho nó phải là như vậy. Làm
sao người chồng, người không bao giờ tràn đầy tình yêu với mọi người lại có thể
đang yêu vợ mình được?
Yêu là bản tính của cuộc
sống. Người ta không thể tràn đầy tình yêu với một người và trống rỗng tình yêu
với mọi người khác. Nhưng nhân loại vẫn chưa có khả năng thấy chân lí đom giản
này. Bố yêu cầu con yêu mình, nhưng bố đã bao giờ dạy đứa con yêu người phục vụ
già trong nhà không? Người ấy chẳng phải là con người sao? Người phục vụ có thể
già, nhưng người đó cũng có thể là bố của ai đó. Không, người đó chỉ là người
phục vụ, và do vậy không có vấn đề nhã nhặn hay yêu mến hướng tới người đó. Nhưng
người bố này không hiểu rằng khi anh ta già đi, anh ta sẽ phàn nàn khi đứa con
mình không bầy tỏ cho mình thưomg yêu nào. Con anh ta có thể lớn lên thành
người tràn đầy tình yêu nếu như chúng đã được dạy yêu tất cả. Và thế thì chúng
sẽ kính trọng người bố già của chúng nữa.
Tình yêu không phải là mối
quan hệ, tình yêu là trạng thái của tâm trí. Nó là thành phần tinh tuý của nhân
cách con người. Do đó, giai đoạn thứ hai trong việc dạy tình yêu là dạy cho con
trẻ yêu tất cả. Nếu đứa tre thậm chí không đặt lại một cuốn sách cho đúng, thì
sự chú ý của nó nên được hướng tới sự kiện rằng việc đặt lại cuốn sách theo
cách đó là không thích hợp. Nó nên được làm cho nhận biết về điều mọi người sẽ
nghĩ về nó nếu nó đối xử với sách vở theo cách đó. Neu bạn đã hành xử tàn nhẫn,
thậm chí với con chó của bạn, điều đó chỉ ra việc khan hiếm trong nhân cách của
bạn; nó là bằng chứng rằng bạn trống rỗng tình yêu. Và người không tràn đầy
tình yêu thì không phải là con người chút nào.
Tôi nhớ câu chuyện về một
thầy tu sống trong một chiếc lều nhỏ. Một đêm, quãng nửa đêm, trời mưa to và
ông thầy tu cùng vợ đang ngủ. Bỗng nhiên, có tiếng gõ cửa: ai đó muốn vào trú
ẩn.
Ông thầy tu đánh thức vợ
dậy. «Ai đó đang ở ngoài,» ông ấy
nói. «Một lữ khách nào đó, người bạn chưa
biết nào đó.»
Bạn có để ý không? Ông ấy
nói, «Một người bạn chưa biết nào đó.»
Bạn thậm chí còn không thân thiện với cả những người bạn biết. Thái độ của ông
ấy là thái độ của tình yêu.
Ông thầy tu nói, «Một người bạn chưa biết nào đó đang đợi bên
ngoài. Mở cửa ra đi.»
Vợ ông ấy nói, «Hết chỗ rồi. Thậm chí chẳng đủ chỗ cho hai
chúng ta. Làm sao một người nữa có thể vào được?»
Ông thầy tu đáp, «Em yêu, đây không phải là cung điện của
người giầu. Nó không thể trở thành nhỏ hơn được. Cung điện của người giầu dường
như là nhỏ hơn nếu thậm chí một khách nữa tới, nhưng đây là cái lều của người
nghèo.»
Vợ ông ta hỏi, «Sao vấn đề nghèo giầu lại chui vào đây được?
Sự kiện rõ ràng là ở chỗ đây là cái lều rất nhỏ!»
Ông thầy tu trả lời, «Nếu có đủ chỗ trong lòng người ta, thì người
ta sẽ cảm thấy rằng cái lều này là cung điện, nhưng nếu lòng người ta chật hẹp,
cho dù cung điện cũng dường như nhỏ. Mở cửa đi. Làm sao chứng ta có thể từ chối
người đã tới cửa nhà chứng ta? Cho tới nay, chúng ta đã nằm. Ba người có thể
không nằm được, nhưng ít nhất ba người có thể ngồi. Có chỗ cho người khác nếu
tất cả chúng ta đều ngồi.»
Người vợ ra mở cửa. Người
khách đi vào, trớt sũng. Họ ngồi với nhau và bắt đầu nói chuyện. Sau một lúc,
hai người nữa tới và gõ cửa.
Ông thầy tu nói, «Dường như là ai đó khác lại đến,» và yêu
cầu ông khách ngồi xích lại gần cửa nhất để mở nó. Người này nói, «Mở cửa sao? Hết chỗ rồi.» Người này,
người mà bản thân minh đã xin trú ngụ trong chiếc lều mới khoảnh khắc trước, đã
quên mất rằng không phải là tình yêu của ông thầy tu đối với minh đã cho anh ta
chỗ, mà là anh ta đã tìm thấy chỗ trú ngụ bởi vì có tình yêu trong chiếc lều.
Và bây giờ, vài người mới đã tới. Và tình yêu phải dàn xếp cho người mới tới.
Nhưng người này nói, «Không, không cần mở cửa. Ông không thấy
chúng ta đã khó khăn thế nào sao, ngồi chồm hỗm ở đây?»
Ông thầy tu nói, «Anh bạn thân mến ơi, tôi đâu có làm ra chỗ
cho anh? Anh đã được phép vào bởi vì có tình yêu ở đây. Nó vân còn ở đây; nó
không hết với anh. Mở cửa ra đi. Bây giờ chúng ta đang ngồi tách xa nhau, cho
nên chúng ta sẽ đơn giản túm tụm lại với nhau. Hơn nữa, đêm lại lạnh và điều đó
sẽ cho chúng ta hơi ấm và vui thích để ngồi một cách ấm cúng với nhau.»
Cánh cửa mở ra và hai người
mới bước vào. Tất cả họ ngồi sát nhau và bắt đầu làm quen với nhau.
Thế rồi, một con lừa tới và
lấy đầu đẩy vào cửa. Con lừa trớt sũng; nó muốn trú ẩn qua đêm. Ông thầy tu yêu
cầu một trong những người này, người gần như ngồi lên chóp cánh cửa, ra mở nó.
«Người bạn mới đã tới,» ông thầy tu
nói.
Lén nhìn ra ngoài, người
này nói, «Đây không phải là người bạn hay
bất kì cái gì giống như người bạn cả. Đấy chỉ là con lừa. Không cần mở cửa.»
Ông thầy tu nói, «Có lẽ anh không biết rằng tại cửa của nhà
giầu mọi người đều bị đối xử như con vật, nhưng đây là túp lều của thầy tu
nghèo và chúng ta đã quen đối xử ngay cả con vật cũng như con người. Xỉn mở cửa
ra.»
Trong nhất trí, mọi người
rên rỉ, «Nhưng chỗ đâu?»
«Có đầy chỗ. Thay vì ngồi, tất cả chúng ta có thể đứng. Chớ giận. Nếu
cần tôi sẽ đi ra ngoài và sẽ đủ chỗ.»
Tình yêu có thể không làm
được nhiều như thế này sao?
Điều bắt buộc là phải có
trái tim tràn đầy tình yêu. Thái độ yêu thương là điều tất cả chúng ta đều phải
có.
Nhân đạo chỉ được sinh ra
trong một người khi người đó có trái tim yêu thương. Và với trái tim yêu thương
đó thì cảm giác mãn nguyện sâu lắng tới, mãn nguyện sâu sắc và vui sướng. Bạn
đã bao giờ để ý, sau khi bạn bầy tỏ một chút tình yêu với ai đó, rằng một con
sóng lớn về mãn nguyện, xúc động lớn về niềm vui tràn ngập khắp bản thể bạn
không? Bạn chưa bao giờ hiểu rằng những khoảnh khắc thanh thản nhất của mãn
nguyện là những khoảnh khắc tới trong tình yêu vô điều kiện sao?
Tình yêu thuần khiết chỉ có
thể tồn tại nếu nó không bị pha trộn bởi các điều kiện; tình yêu có điều kiện
không phải là tình yêu. Bạn đã bao giờ có cảm giác về mãn nguyện sau khi đã mỉm
cười với người lạ trên phố không? Làn gió thoảng của an bình có theo sau nó
không? Không có giới hạn về con sóng niềm vui thanh bình mà bạn cảm thấy khi
bạn nâng một người bị ngã, khi bạn đỡ cho người bị ngã, khi bạn tặng hoa cho
người ốm - nhưng không phải khi bạn làm nó bởi vì người đó là bố bạn hay bởi vì
người đó là mẹ bạn. Không, người này có thể không phải là bất kì ai đặc biệt
đối với bạn, nhưng đơn giản việc trao món quà bản thân nó là phần thưởng lớn,
hài lòng lớn.
Tình yêu nên tuôn ra từ bên
trong bạn - tình yêu với cây cỏ, tình yêu với con người, tình yêu với người lạ,
tình yêu với người ngoại quốc, tình yêu với những người đang trên đường của họ
tới mặt trăng và các vì sao. Tình yêu của bạn bao giờ cũng nên tăng mãi.
Khả năng của dục trong cuộc
sống con người nhỏ đi khi tình yêu tăng lên bên trong người đó. Tình yêu và
thiền sẽ mở ra cánh cửa đó, cánh cửa tới Thượng đế. Cùng nhau, tình yêu và
thiền chạm tới Thượng đế, và thế thì vô dục nở hoa trong cuộc sống con người.
Thế thì toàn bộ sinh lực thăng hoa qua bước chuyển mới. Thế thì nó không dò rỉ
đi dần dần; thế thì nó không bao giờ rút đi. Năng lượng dâng lên từ bên trong;
nó dâng lên trong cuộc hành trình của mình tới thiên đường. Cuộc hành trình của
chúng ta, hiện tại, là hướng về các mức thấp hơn. Theo bản chất, năng lượng chỉ
chảy xuống, vào dục, nhưng vô dục lại là cuộc hành trình đi lên. Và tình yêu và
thiền là chất liệu cơ sở của vô dục.
Ngày mai chúng ta sẽ nói về
điều chứng ta đạt tới qua vô dục. Chứng ta thu được gì? Nó đưa chứng ta tới
những đỉnh cao nào?
Hôm nay tôi nói với bạn về
hai điều: tình yêu và thiền. Tôi đã bảo các bạn rằng việc huấn luyện nên bắt
đầu từ giai đoạn trẻ thơ, nhưng bạn không nên suy diễn từ điều này rằng vì bạn
không phải là trẻ con nữa nên chẳng có gì còn lại cho bạn làm cả. Trong trường
hợp đó, phòng thí nghiệm của tôi sẽ phí hoài. Dù độ tuổi của bạn là gì, công
việc tốt lành này cũng có thể được bắt đầu vào bất kì ngày nào. Mặc dầu nó trở
thành vất vả hơn với việc tuổi già tới, cuộc hành trình trên con đường này có
thể được tiến hành vào bất kì lúc nào trong cuộc đời. Tốt hơn cả là bắt đầu
cuộc hành trình này từ thời trẻ thơ, nhưng cũng tốt để tiến hành nó vào bất kì
giai đoạn nào trong cuộc sống. Bạn có thể bắt đầu hôm nay. Người già hơn, người
sẵn lòng học hỏi, người có thái độ học hỏi, thì vẫn là trẻ thơ cho dù họ đã già
nhiều tuổi. Họ, cũng được, có thể bắt đầu lại lần nữa; họ, cũng được, có thể
học, nếu họ không coi rằng họ đã biết mọi điều hay rằng họ đã đạt tới mọi điều
mong muốn.
Phật Gautam có một đệ tử,
đã là một người sùng kính trong nhiều năm, và một hôm Phật hỏi người đó, «Sư ông, ông bao nhiêu tuổi rồi?»
Sư đáp, «Năm tuổi.»
Phật ngạc nhiên. «Năm tuổi sao? Ông trông ít nhất cũng phải
bẩy mươi. Đây là loại câu trả lời gì thế này?»
Sư đáp, «Tôi nói điều này bởi vì tia sáng thiền đã đi
vào cuộc đời tôi năm năm trước đây, và chỉ trong năm năm qua tình yêu đã mưa
rào trong đời tôi. Trước đó, cuộc sống tôi giống như giấc mơ; tôi tồn tại trong
giấc ngủ. Khi đếm tuổi mình tôi không tính tới những năm đó. Làm sao tôi có thể
tính được? Cuộc sống thực của tôi chi bắt đầu năm năm trước đây. Tôi mới năm
tuổi,»
Phật bảo tất cả các đệ tử
ghi rõ lại câu trả lời của sư này.
Tất cả các bạn nên đếm tuổi
minh theo cách này; đây là chuẩn cho việc tính tuổi. Nếu yêu và thiền còn chưa
được sinh ra trong bạn, thì cuộc sống của bạn, mãi cho tới nay, là tiêu cực;
bạn vẫn còn chưa được sinh ra. Nhưng cũng chẳng bao giờ quá muộn để bạn không
thể bắt đầu thử. Tất cả chứng ta nên cố gắng đạt tới cuộc sống cao hơn. Và với
điều đó thi không bao giờ là quá chậm cả.
Cho nên đừng kết luận từ
lời tôi, bởi vì bạn đã trải qua thời kì trẻ thơ, nên câu chuyện này chi có ý
nghĩa cho các thế hệ tương lai. Không lúc nào có người nào đi xa trên con đường
sai đến mức người đó không thể trở về con đường đúng được; không người nào đã
trở thành bướng bỉnh đến mức người đó không thể nào được lợi từ ánh sáng đúng.
Nói một cách so sánh, cuộc
hành trình này không đòi hỏi nhiều nỗ lực. Việc quay trở lại trong sự hoàn thành
và thoả mãn vào lúc bừng lên chứng ngộ còn lớn hơn nhiều so với bất kì nỗ lực
nào bạn đã làm. Cái thoáng nhìn đơn thuần về tia sáng đó, về niềm vui đó, về
chân lí đó, cho chúng ta cảm giác chúng ta đã đạt tới nhiều thế với ít nỗ lực
thế; nó chỉ ra cho chúng ta là chúng ta đã đạt tới cái vô giá với những nỗ lực
quả thực rất không đáng kể.
Xin đừng xét lời tôi theo
khuôn khổ sai của tâm trí. Đây là yêu cầu khiêm tốn của tôi với tất cả các bạn.
Comments
Post a Comment