05 - Biến đổi năng lượng Dục thành Tình yêu
Chương 5
Biến
đổi năng lượng Dục
thành Tình yêu
Các bạn đã hỏi nhiều câu hỏi.
Một bạn đã hỏi tại sao tôi lại chọn dục làm chủ đề cho bài nói của mình. Để tôi
minh hoạ. Có một cuộc họp công khai được tổ chức tại một chợ lớn ở
Tôi quan sát thấy rằng mọi
người đều hài lòng với lời kêu gọi, và tôi phỏng đoán rằng những người cảm thấy
dễ nghe thông điệp sâu sắc và quyết liệt của Kabir phải thực sự có dũng cảm để
đốt nhà mình và bắt đầu cuộc tìm kiếm chân lí. Với những người như vậy tôi nghĩ
là tôi có thể nói thẳng, từ tận đáy lòng. Nhưng, trong thực tế, không người nào
trong họ sẵn sàng buông bỏ hay đốt nhà mình, vấn đề là, nếu Kabữ có đó thì ông
ấy sẽ không sung sướng gì với tình huống đó chút nào. Tất cả chúng ta ở đây đều
thích nghe điều Kabir nói, nhưng không ai trong những người hiện diện khi Kabir
đã nói điều đó ba trăm năm trước đây cảm thấy sung sướng về nó. Tôi đã bị giày
vò bởi cùng ảo tưởng như Kabir, như Christ. Con người là con vật kì diệu thế -
người đó tận hưởng việc nghe nói về những người đã chết, và đe doạ giết chết
những người đang sống.
Tôi có nhiệm vụ nói ra điều
gì đó về chân lí. Nhưng để nói về chân lí, cần phải phá huỷ những cái phi chân
lí mà con người đã chấp nhận làm chân lí. Nhiều nguyên tắc chứng ta chấp nhận
như chân lí, trong thực tế lại không đúng. Chừng nào những điều phi chân lí này
còn chưa được phơi bầy ra, bước đầu tiên theo hướng chân lí không thể được tiến
hành.
Tôi đã được yêu cầu nói về
«Tình yêu.» Nhưng tôi cảm thấy rằng
chừng nào chúng ta còn bị vướng víu bởi những giả thuyết không đúng nào đó về
dục và thèm khát dục, thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có khả năng hiểu hay đánh
giá được tình yêu. Chừng nào những niềm tin sai lầm vẫn còn bắt rễ sâu sắc, bất
kì điều gì chúng ta nói về tình yêu cũng sẽ là không đầy đủ, sẽ bị phí hoài, sẽ
không đúng. Cho nên, để hội tụ vào điều đó, tôi đã nói về thèm khát dục và dục
trong buối họp đặc biệt đó. Tôi đã nói rằng năng lượng dục bản thân nó có thể
được biến đổi thành tình yêu.
Neu người ta mua phân bón,
bản thân nó bẩn thỉu và bốc mùi hôi hám, và chất đống nó trên phố ngay trước
nhà bạn, nó sẽ làm cho mọi sự thành khó khăn cho bất kì ai đi qua. Nhưng nếu
người đó rải phân trong vườn thế thì hạt mầm của người đó sẽ lớn lên. Hạt mầm
sẽ trở thành cây và cây sẽ cho hoa và hương thơm của chúng sẽ là lời mời cho
tất cả. Khách qua đường sẽ ngợi ca. Bạn có lẽ chưa bao giờ nghĩ về điều đó,
nhưng hương thơm của hoa chẳng là gì ngoài mùi hôi hám của phân - vươn lên từ
hạt mầm qua cây cối, mùi hôi thối của phân trở thành mùi thơm của hoa. Mùi khó
ngửi có thể được biến đổi thành hương thơm dịu ngọt.
Theo cùng cách này, dục có
thể trở thành tình yêu. Nhưng làm sao người ghét dục lại trở nên tràn ngập với
tình yêu được? Làm sao người ta có thể biến đổi được dục khi người ta là kẻ thù
của nó? Và do vậy, tôi nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc hiểu thèm khát dục,
của việc biết về dục. Hôm nọ, tôi đã chỉ ra rằng dục phải được biến đổi.
Tôi nghĩ rằng những người
đã có khả năng cân nhắc câu hỏi về đốt nhà mình thi sẽ sung sướng nghe bài nói
ngay thẳng nào đó. Nhưng tôi đã bị lầm một cách đáng tiếc.
Khi tôi kết thúc bài nói
hôm nọ, tôi ngạc nhiên thấy rằng tất cả các quan chức, người đã ngồi trên bục,
các bạn bè người đã tổ chức cuộc họp này, đã biến mất trong thinh không. Tôi
không thấy người nào trong số họ khi tôi bước xuống lối đi giữa để ra về. Tôi
nghĩ họ có lẽ đã chạy xô về nhà trong trường hợp nhà họ cháy - nhưng, có thể
hơn, họ đã chạy về nhà để dập tắt đám cháy của riêng họ.
Thậm chí không có cả nhà tổ
chức chính hiện diện để cám ơn tôi. Bất kì cái mũ trắng nào đã có đó, bất kì
người nào có trách nhiệm đã có đó, đều không còn trên bục; họ đã chuồn từ lâu
trước khi hoàn tất bài nói. Các nhà lãnh đạo quả thực là loài rất yếu đuối. Và
mau lẹ nữa. Họ chạy mất trước khi tín đồ của họ chạy.
Nhưng một số người dũng cảm
đã tiếp cận tôi - một số đàn ông và đàn bà tâm linh: một số già, một số trẻ.
Tất cả họ đều nói tôi đã nói cho họ những điều không ai đã từng nói trước đây.
Họ nói mắt họ đã được mở ra, rằng họ cảm thấy nhiều ánh sáng bên trong hơn. Đã
có cái nhìn biết ơn trong mắt họ, trong những giọt nước mắt của niềm vui. Tôi
đã được họ yêu cầu hoàn chỉnh loạt bài nói này. Những người trung thực đó đã
sẵn sàng để hiểu cuộc sống; họ đã hỏi liệu tôi có nói thêm chi tiết về chủ đề
này không, và đây là một trong những lí do cho việc quay trở lại của tôi tới
Một đám đông đã tụ tập,
thậm chí khi tôi ra khỏi Bhavan, và mọi người chúc mừng tôi về điều tôi đã nói.
Thế rồi, mặc dầu những nhà lãnh đạo đã chuồn mất, tôi vẫn cảm thấy rằng công
chúng đồng tình với tôi. Yà tại chỗ ấy lúc ấy tôi đã quyết định trình bầy chi
tiết đầy đủ về chủ đề này. Đó là lí do tại sao tôi đã chọn chủ đề này.
Một lí do khác là ở chỗ
những người đã chạy mất khỏi bục lại bắt đầu bảo với mọi người ở mọi nơi rằng
tôi đã nói những điều báng bổ thế, rằng tôn giáo chắc chắn là bị phá huỷ, rằng
tôi đã nói những điều sẽ làm cho mọi người thành phi tôn giáo! Yà do vậy, để
đáp lại họ tôi cảm thấy tôi phải trình bầy chi tiết quan điểm của tôi. Tôi cảm
thấy họ nên hiểu rằng mọi người không định trở thành phi tôn giáo bởi việc nghe
bài nói về dục, mà rằng, ngược lại, mọi người phi tôn giáo bởi vì họ đã không
hiểu dục mãi cho tới giờ.
Dốt nát có thể làm cho bạn
thành phi tôn giáo; tri thức sẽ không bao giờ làm bạn thành phi tôn giáo cả.
Và, tôi nói, nếu tri thức có thể gây ra tính phi tôn giáo, tôi vẫn tra thích
tri thức hơn. Nhưng, tất nhiên, đấy không phải là trường hợp này. Tri thức là
tôn giáo, và dốt nát là phi tôn giáo. Và bên cạnh đó, tôn giáo thịnh vượng trên
việc thiếu tri thức thì không phải là tôn giáo chút nào - nó là phi tôn giáo -
và chúng ta thoát khỏi nó càng sớm càng tốt. Ánh sáng mà thiếu sáng thì không
phải là ánh sáng; nó là bóng tối giả trang làm ánh sáng. Không, ánh sáng bao
giờ cũng mời ánh sáng; tri thức bao giờ cũng đón chào tri thức. Và nhớ, tôn
giáo không là gì ngoài cái tên khác cho việc tìm kiếm tri thức cao thượng, cho
việc hiểu về ánh sáng hoàn hảo. Dốt nát, bóng tối, bao giờ cũng có hại.
Nếu nhân loại trở nên đê
hèn đi, nếu toàn bộ việc hư hỏng xuất hiện, nếu nhân loại trở nên thần kinh
hoàn toàn bởi vì dốt nát của nó về dục, điều đáng trách sẽ không là ở những
người suy ngẫm và thiền về chủ đề dục, nhưng ở cánh cửa của cái gọi là người
thuyết pháp về đạo đức và tôn giáo. Họ đã cố gắng giữ con người bị nhốt trong
dốt nát trong hàng nghìn năm. Nhưng với những nhà lãnh đạo đàn áp đó, nhân loại
đáng được tự do khỏi dâm dục từ lâu. Dục là thông thường, nhưng can thiệp của
dâm dục có thể được dõi về các guru này. Cản trở này có thể chẳng bao giờ được
vượt qua chừng nào dốt nát về dục vẫn còn.
Tôi không thiên về dốt nát
tại bất kì mức độ nào của cuộc sống. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng đón chào chân lí
với bất kì giá nào, với bất kì nguy hiểm nào. Tôi cảm thấy rằng nếu một tia
sáng rải rác của chân lí có thể lan toả nhiều kích động trong mọi người thế thì
việc thảo luận toàn bộ phổ của nó là phù hợp, do vậy xoá đi câu hỏi về việc
liệu tri thức về dục có làm cho con người thành tôn giáo hay phi tôn giáo. Đây
là bối cảnh; đây là lí do tại sao tôi đã chọn chủ đề này. Không có điều này,
vấn đề đã không xuất hiện cho tôi để chọn chủ đề này; không có điều này, tôi sẽ
không nói về chủ đề này chút nào. Và do vậy, những người đã tạo ra cơ hội này
và đưa tôi tới, một cách gián tiếp, để chọn chủ đề này cho những bài giảng đó
đều xứng đáng được cám ơn. Do đó, nếu bạn có ý cám ơn tôi vì việc chọn chủ đề
này, xin đừng làm như vậy; thay vì thế, chúc mừng những người đang tuyên truyền
những điều sai về tôi. Họ đã buộc tôi phải chọn kĩ càng chủ đề này.
Bây giờ đến bản thân chủ đề
này.
Một người bạn đã hỏi, «Nếu biến đổi của dục là thành tình yêu, thế
thi thầy có ngụ ý rằng tình yêu của bà mẹ với đứa con mình cũng là bởi vì dục
không?» Người khác cũng hỏi câu hỏi tương tự.
Sẽ có ích để hiểu điều này.
Nếu bạn đã nghe một cách chăm chú, bạn sẽ nhớ lời tôi bảo bạn rằng có một chiều
sâu trong sự tồn tại của dục, một chiều sâu mà người thường không đạt tới. Có
ba mức độ dục và tôi muốn nói về chứng bây giờ.
Mức độ thứ nhất là mức độ
thô. Chẳng hạn, một người đi tới gái mãi dâm. Kinh nghiệm anh ta thu được ở đó
không thể sâu sắc hơn mức vật lí. Gái mãi dâm có thể bán thân thể mình nhưng
không thể bán trái tim cô ta được, và, tất nhiên, không có cách nào để bán linh
hồn cả.
Tại mức độ này, thân thể
gặp nhau - như trong hãm hiếp. Trong hãm hiếp không có gặp gỡ của trái tim hay
linh hồn; hãm hiếp xảy ra chỉ trên mức độ vật lí. Không có cách nào để hãm hiếp
linh hồn; kinh nghiệm về hãm hiếp thuần tuý là vật lí.
Kinh nghiệm chủ yếu về dục
là trên mức độ sinh lí, nhưng những người dừng lại ở đó thì không bao giờ đạt
tới kinh nghiệm đầy đủ về dục. Họ có thể không bao giờ biết tới những chiều sâu
tôi đã nói về chúng. Những ngày này, phần lớn mọi người đều dừng lại tại mức độ
vật lí.
Trong mối liên hệ này, điều
quan trọng cần biết là trong những quốc gia mà hôn nhân xẩy ra không có tình
yêu, dục tù đọng tại mức độ vật lí. Nó không bao giờ có thể tiến bộ vượt ra
ngoài điều đó. Những hôn nhân này có thể là của hai thân thể nhưng không bao
giờ của hai linh hồn. Tình yêu chỉ có thể tồn tại giữa hai linh hồn. Hôn nhân có
thể có ý nghĩa sâu sắc nếu nó xảy ra vì tình yêu, nhưng hôn nhân xảy ra bởi vì
những tính toán của các học giả và nhà chiêm tinh, hay từ những cân nhắc về
đẳng cấp hay tiền bạc, thi không bao giờ có thể đi sâu hơn tầng vật lí.
Có một tru điểm cho hệ
thống này, theo nghĩa rằng thân thể ổn định hơn tâm trí, và do vậy trong xã hội
mà trong đó thân thể là cơ sở cho hôn nhân, hôn nhân sẽ ổn định hơn. Chứng sẽ
kéo dài lâu hơn bởi vì thân thể không phải là không ổn định, bởi vì thân thể
gần như là nhân tố hằng và thay đổi đi vào rất, rất chậm, gần như không cản
nhận nổi về nó. Thân thể là trong trạng thái không đổi, và những xã hội đó mà
coi điều quan trọng là ổn định hoá thể chế hôn nhân, để duy trì chế độ một vợ
một chồng, để không có khả năng thay đổi nào, đã phải huỷ bỏ đi tình yêu; họ
phải chùi sạch tình yêu đi. Bởi vì trái tim là chỗ trú cho tình yêu và trái tim
là không ổn định, nên li dị là điều không tránh khỏi trong những xã hội mà hôn
nhân được dựa trên tình yêu. Không bao giờ có thể có hôn nhân ổn định trong
những xã hội đó bởi vì tình yêu là linh động. Trái tim là thuỷ ngân; thân thể
là ổn định, không đổi.
Neu có hòn đá trong sân nhà
bạn, nó sẽ ở cùng vị trí trong buổi tối cũng như nó ở trong buổi sáng, nhưng
đoá hoa nở vào buổi sáng và đến tối nó rũ xuống, rụng xuống đất. Đá là vật vô
sinh: dù nó là bất kì cái gì vào buổi sáng thì nó cũng sẽ vẫn là cái đó vào
buổi tối. Hôn nhân dựa trên mức độ vật lí sẽ đem lại tính ổn định, nhưng nó sẽ
không khác như ổn định của tảng đá. Loại hôn nhân này là mối quan tâm của xã
hội, nhưng bất lợi cho cá nhân.
Trong những hôn nhân như
vậy, dục giữa chồng và vợ không chạm tới các cõi giới sâu sắc hơn; nó đơn thuần
trở thành thường lệ máy móc. Hành động này đơn giản được lặp lại thường xuyên
và trở thành nhạt nhẽo; chẳng cái gì nhiều hơn xảy ra, và những người tham dự
trở nên ngày càng đờ đẫn. Có rất ít khác biệt giữa việc đi tới gái mãi dâm và
trong hôn nhân không tình yêu. Bạn mua gái mãi dâm trong một đêm, trong khi bạn
mua người vợ trong cả đời mình; đây là khác nhau duy nhất. Khi không có tình
yêu thì mua bán được thực hiện - dù là bạn thuê một người phụ nữ một đêm hay
thu xếp cho cả đời. Tất nhiên, bởi vì kết giao hàng ngày mà một loại quan hệ đi
vào hiện hữu - và chúng ta gọi nó là tình yêu. Đây không phải là tình yêu; tình
yêu là cái gì đó khác. Nhưng hôn nhân này đơn giản là của thân thể, và do vậy
mối quan hệ chẳng bao giờ có thể đi sâu hơn mức vật lí. Không sách hướng dẫn
hay kinh sách nào đã được viết ra về tình yêu, từ Vatsyayana tới Koka Pundit,
đều đi sâu hơn vào mức vật lí.
Mức độ khác là tâm lí - của
tâm trí, của trái tim. Hôn nhân của các đôi yêu nhau và rồi cưới nhau đi sâu
hơn chút ít, chút ít sâu hơn hôn nhân ở mức vật lí. Họ đạt tới trái tim; họ đạt
tới chiều sâu tâm lí, nhưng bởi vì chế độ một vợ một chồng nên họ trở lại mức
độ vật lí hàng ngày. Thể chế của hôn nhân đã phát triển ở phương Tây trong hai
trăm năm qua là dựa trên mức độ này. Và bởi vì điều này, xã hội của họ bị rời
ra và đồi bại.
Lí do cho điều này là ở chỗ
bạn không thể dựa trên tâm trí được. Hôm nay tâm trí ham muốn điều này; ngày
mai nó sẽ đòi hỏi cái gì đó khác. Nó muốn thứ này vào buổi sáng và cái gì đó
khác vào buổi tối. Điều nó cảm thấy bây giờ sẽ hoàn toàn khác với cái nó đã cảm
thấy chỉ vài khoảnh khắc trước.
Bạn có thể đã nghe nói rằng
Huân tước Byron, trước khi ông ấy cuối cùng lấy vợ, đã từng thân mật với ít
nhất sáu mươi đến bẩy mươi phụ nữ. Nhưng thậm chí khi ông ấy đi tới nhà thờ sau
đám cưới, tay trong tay với cô dâu mới, ông ấy thấy một phụ nữ đẹp đi ngang
qua. Ông ấy đã sững sờ bởi sắc đẹp của cô ấy, và trong một chốc ông ấy quên mất
người vợ mới, đám cưới mới đây của ông ấy. Nhưng ông ấy cũng phải là người rất
trung thực, bởi vì, khi ông ấy vào xe cùng với cô dâu, ông ấy đã nói với cô ấy,
«Em có chú ý không? Một điều lạ vừa mới
xảy ra ngay đây. Hôm qua, trước khi chúng ta cưới nhau, anh đã lo nghĩ là liệu
anh có thực sự có khả năng giữ được em hay không - em đã là người phụ nữ duy
nhất trong tâm trí anh - nhưng bây giờ, khi anh thực tế đã cưới em, anh mới
thấy một phụ nữ xinh bên đường khi chúng ta ra khỏi cầu thang nhà thờ, và anh
đã quên mất em trong một chốc: tâm trí anh bắt đầu đuổi theo người phụ nữ đó;
một ý nghĩ thoáng qua tâm trí anh, Anh tự hỏi “Liệu anh có thể có được người
phụ nữ ấy không?”»
Tâm trí rất hay thay đổi,
và do vậy các xã hội muốn ổn định cuộc sống gia đình không cho phép hôn nhân
được đạt tới bình diện tâm lí, họ cố gắng để dừng hôn nhân tại mức độ vật lí.
Họ nói, «Lấy nhau, nhung không vì tình.
Nếu bạn trưởng thành trong tình yêu sau hôn nhân, thi tốt; nếu không, để mọi
thứ như chúng có thể thế.»
Tính ổn định là có thể trên
mức độ vật lí nhưng trên bình diện tâm lí điều đó rất khó. Kinh nghiệm dục là
sâu sắc hon và tinh tế hon trên bình diện tinh thần, và do đó kinh nghiệm ở
phưong Tây đã sâu sắc hon ở phưong Đông. Các nhà tâm lí học phưong Tây, từ
Freud tới Jung, đã viết về giai đoạn thứ hai này của dục, về mức độ tâm lí.
Nhưng dục tôi đang nói tới lại ở mức thứ ba, mà mãi cho tới nay, vẫn còn chưa
được hiểu ở cả phưong Đông lẫn phưong Tây. Mức độ thứ ba đó của dục là mức tâm
linh.
Bởi vì thân thể có quán
tính nên có một loại ổn định ở mức vật lí. Cũng có một loại ổn định ở mức tâm
linh, bởi vì không có thay đổi tại mức độ đó: mọi thứ đều bình thản ở đó; tại
đó, nó là vĩnh hằng. Giữa hai giai đoạn này tồn tại mức độ tâm lí. Nó là không
ổn định, giống như kí ức.
Kinh nghiệm của phưcmg Tây
là trên mức độ này, và do vậy hôn nhân tan vỡ và gia đình tan rã. Hôn nhân được
sinh ra từ gặp gỡ của tâm trí không thể tạo ra tình thế gia đình ổn định, và
bây giờ khuynh hướng ở phưcmg Tây là nhằm vào li dị. Li dị bây giờ xuất hiện
quãng hai năm, nhưng điều này cũng có thể trở thành hai giờ! Tâm trí người ta
có thể thay đổi thậm chí trong một giờ! Xã hội ở phưcmg Tây bị rời ra. So sánh
với điều đó, xã hội phưcmg Đông ổn định hom, nhưng phưomg Đông vẫn không thể
nào thăm dò được những chiều sâu tinh tế và cao thượng của dục.
Đàn ông và đàn bà, người có
thể gặp gỡ trên mức độ tâm linh, người có thể hợp nhất về tâm linh - thậm chí
một lần - cảm thấy họ đã hợp nhất cho vô hạn kiếp sống sắp tới. Có linh động
sâu sắc; cực lạc vô thời gian và thuần khiết là của hồi môn đám cưới.
Dục tôi đang nói tới là dục
tâm linh, kinh nghiệm thiêng liêng. Tôi ham muốn khuynh hướng tâm linh về dục.
Và nếu bạn hiểu điều tôi
đang nói, bạn sẽ nhận ra rằng tình yêu của mẹ với con trai cũng là một phần của
dục tâm linh. Bạn sẽ nói rằng đây là phát biểu ngược đời. Bạn sẽ hỏi có thể có
mối quan hệ dục nào giữa mẹ và con trai? Để hiểu điều này đầy đủ, chúng ta phải
xem xét lại nhiều khía cạnh khác của dục và tưomg tác của nó trong các mối quan
hệ giữa chồng, vợ và con.
Như tôi đã bảo với bạn, đàn
ông và đàn bà chỉ gặp gỡ có một chốc. Linh hồn của họ cũng gặp gỡ nhưng chỉ một
khoảnh khắc, trong khi đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ những chín tháng. Trong
thời kì này sự tồn tại của nó là một với sự tồn tại của người mẹ. Chồng cũng
gặp vợ tại mức độ này - nơi chỉ có sự tồn tại, nơi chỉ có sự hiện hữu - nhưng
nó chỉ là trong một khoảnh khắc và thế rồi họ phân tách. Chồng và vợ gặp nhau
trong một khoảnh khắc và thế rồi nhảy ra xa, và do vậy thân mật mà người mẹ có
với đứa con mình là không thể có với chồng mình; nó không thể thế được.
Đứa trẻ trong bụng mẹ thở
hơi thở của mẹ, tim nó đập qua tim của mẹ. Đứa trẻ là một với máu và cuộc sống
của người mẹ: nó chưa có sự tồn tại cá nhân; nó vẫn là một phần của người mẹ.
Không đàn ông nào có thể thoả mãn người phụ nữ nhiều như đứa con có thể thoả
mãn; không người chồng nào có thể cho vợ mình cái cảm giác sâu sắc về sự thân
thiết mà đứa con có thể cho cô ấy. Cũng vậy, sự trưởng thành đầy đủ của phụ nữ
là không đầy đủ chừng nào cô ấy chưa trở thành người mẹ. Chừng nào cô ấy còn
chưa đạt tới tình mẹ, toả sáng đầy đủ của nhân cách phụ nữ, nở hoa tối đa của
cái đẹp của cô ấy là không thể có được. Phụ nữ không bao giờ có thể bằng lòng
hoàn toàn chừng nào cô ấy còn chưa trở thành người mẹ, chừng nào cô ấy còn chưa
biết tới mối quan hệ sâu sắc, tâm linh vẫn tồn tại giữa mẹ và con.
Và cùng với điều này, nhớ
trong đầu rằng ngay khi phụ nữ trở thành người mẹ thì mối quan tâm của cô ấy trong
dục tự động tàn đi. Cô ấy đã uống tình mẹ sâu sắc; trong chín tháng cô ấy đã
cùng tồn tại với một cuộc sống mới đang đập, và bây giờ cô ấy hầu như không có
hấp dẫn tới dục. Vào lúc người chồng bối rối bởi lãnh đạm của cô ấy, bởi vì
việc trở thành người bố của anh ta chẳng thay đổi gì thái độ của anh ta đối với
dục theo bất kì cách nào; anh ta không có mối quan hệ sâu sắc với quá trình
sinh con. Với cuộc sống mới được sinh ra, người bố không có cảm giác về cái một
tâm linh. Việc trở thành mẹ đem lại sự thay đổi cơ bản trong phụ nữ, nhưng tính
chất bố đơn giản là một thể chế xã hội. Đứa trẻ có thể lớn lên không cần bố,
nhưng nó có mối quan hệ bắt rễ sâu sắc với người mẹ.
Một loại khoẻ mạnh tâm linh
mới trút đầy người phụ nữ sau việc sinh con. Nếu bạn nhìn vào người phụ nữ đã
trở thành người mẹ và vào người chưa trở thành mẹ, bạn sẽ cảm thấy khác biệt
trong nhân cách của họ, theo cảm giác thoải mái họ phát ra. Trong người mẹ bạn
sẽ thấy nhiệt tình, bình thản - loại bình thản bạn thấy trong dòng sông đã đạt
tới đồng bằng - nhưng trong người chưa trở thành mẹ bạn sẽ cảm thấy một loại
linh hoạt sùng sục giống như con suối vẫn chảy qua núi non - sôi ùng ục, ầm ĩ,
tràn bờ, xô về phía đồng bằng. Phụ nữ trở nên tĩnh lặng, bình thản và thanh
bình bên trong sau khi cô ấy trở thành mẹ.
Trong mối liên quan này tôi
cũng muốn phát biểu rằng những phụ nữ, người buồn phiền với đam mê dục, như
thông thường ở phương Tây ngày nay, là những phụ nữ không muốn trở thành mẹ.
Sau thời kì làm mẹ, sự hấp dẫn của phụ nữ về dục bỗng nhiên giảm đi, và phụ nữ
phương Tây người từ chối trở thành mẹ thì đang làm như vậy bởi vì cô ấy biết
rằng ngay khi cô ấy trở thành mẹ cô ấy sẽ mất mối quan tâm vào dục. Cô ấy ủng
hộ cho say mê trong dục bằng việc không trở thành mẹ.
Các chính phủ của nhiều
nước phương Tây đang quan ngại về điều này. Nếu điều này còn tiếp tục, điều gì
sẽ xảy ra cho dân số của họ? Phương Đông lo nghĩ về việc tăng dân số, nhưng một
số quốc gia phương Tây lại sợ việc giảm dân số. Chẳng thể làm gì được nếu phụ
nữ quyết định không trở thành mẹ bởi vì họ biết họ sẽ mất mối quan tâm tới dục.
Chương hình kế hoạch hoá gia đình có thể phải được thực hiện theo luật, nhưng
không luật nào có thể buộc phụ nữ trở thành mẹ. vấn đề này của các nước phương
Tây còn rắc rối hơn là vấn đề bùng nổ dân số của chúng ta. Chứng ta có thể dừng
việc tăng dân số bằng việc bắt buộc, hay bằng pháp luật. Nhưng các nước phương
Tây không thể tăng dân số của họ bằng luật pháp được. Trong hai trăm năm nữa
vấn đề này sẽ phát triển thành tỉ lệ khổng lồ ở phương Tây, và dân số trong các
nước phương Đông, tăng lên theo cách nhảy vọt, có thể đưa các nước này tới việc
chi phối cả thế giới. Đồng thời, với việc chuyển thời gian, nhân lực phương Tây
sẽ giảm đi. Họ sẽ phải làm cho phụ nữ đồng ý trở thành mẹ lần nữa.
Một số các nhà tâm lí của
họ đã bắt đầu để lộ ra sự thiên về tảo hôn. Người phụ nữ vào độ chín muồi không
định quan tâm tới việc trở thành người mẹ - cô ấy sẽ quan tâm nhiều hơn tới thú
vui dục - cho nên các nhà tâm lí của họ đang khuyên mọi người tảo hôn. Thế thì,
trong những trường hợp đó, phụ nữ sẽ không có bất kì ý tưởng nào khác trước khi
họ trở thành người mẹ. Đây cũng là một trong những lí do đằng sau việc tảo hôn
ở phương Đông; họ biết cô gái sẽ không muốn cưới và trở thành mẹ khi cô ấy đã
trở thành người lớn, khi cô ấy trở nên có ý thức về dục, khi cô ấy đã phát
triển nếm trải về nó. Tâm tính này, hấp dẫn mênh mông này về dục, tồn tại trong
phụ nữ cho tới khi họ biết điều họ sẽ đạt tới bởi việc trở thành người mẹ.
Nhưng điều này họ có thể hiểu được chỉ sau khi đạt tới tình mẹ. Không có cách
nào để có ý niệm mơ hồ về nó trước khi thực tế trở thành mẹ.
Tại sao phụ nữ vừa lòng thế
sau khi cô ấy đã trở thành người mẹ? Đấy là vì cô ấy đã có kinh nghiệm thiêng
liêng, không phá vỡ nổi về dục tâm linh với đứa con mình. Và chính bởi vì điều
này mới có thân thiết mạnh mẽ thế giữa mẹ và con. Người phụ nữ sẽ hi sinh cuộc
sống của mình cho con, nhưng không thể nào hình dung nổi việc lấy đi cuộc sống
của đứa con mình. Người vợ có thể giết chồng - điều đó xảy ra thường xuyên - và
thậm chí nếu cô ấy không thực sự làm điều đó, cô ấy có thể tạo ra hoàn cảnh tại
nhà mà rốt cuộc cũng là cùng việc đó. Nhưng đối với đứa con mình, cô ấy không
bao giờ có thể thậm chí nghĩ về việc như vậy. Đấy là vì mối quan hệ với đứa con
mới rất sâu sắc thế, rất thân thiết thế.
Theo cùng một mạch, tôi
muốn nói rằng khi người phụ nữ phát triển mối quan hệ sâu sắc với chồng mình,
người chồng trở thành con cô ấy. Thế thì anh ta không còn là chồng chút nào
nữa.
Có nhiều đàn ông và đàn bà
ngồi đây tại buổi tụ tập này. Tôi muôn hỏi các đàn ông hiện ở đây liệu họ có
hành xử hệt như đưa trẻ nhỏ làm với mẹ chúng không khi họ đang trong tâm trạng
tình yêu toàn bộ hướng tới vợ mình Bạn có biết tại sao tay đàn ông lại vô ý
thức đưa về vú người đàn bà không? Đấy chính là tay của đứa trẻ nhỏ mò tới vú
mẹ. Ngay khi đàn ông bị chinh phục bởi tình yêu của đàn bà, tay anh ta tự động
lần tới vú cô ấy. Tại sao? Yú có mối quan hệ gì với tình yêu? Hay với dục? Dục
không có quan hệ thực với vú chút nào, nhưng đứa trẻ có mối liên hệ sâu sắc với
bầu vú mẹ. Từ tuổi thơ, nó đã đắm chìm trong nhận biết rằng chỗ móc nối của nó
là bầu vú, đường huyết mạch. Khi đàn ông tràn ngập với tình yêu sâu sắc, anh ta
trở thành đứa con!
Và tay người phụ nữ để đi
đâu?
Mối quan hệ giữa chồng và
vợ là sự bắt đầu của cuộc hành trình và không kết thúc. Và nhớ, bởi vì nó là cuộc
hành trình, nên chồng và vợ bao giờ cũng trong trạng thái căng thẳng. Cuộc hành
trình bao giờ cũng khó chịu; an bình chỉ tìm thấy ở nơi đến. Chồng và vợ không
bao giờ bình tĩnh bởi vì họ bao giờ cũng di chuyển, bao giờ cũng trên đường -
và phần lớn mọi người đều tàn lụi trên con đường, chẳng bao giờ đạt tới đích
cả. Bởi vì điều này, nên bao giờ cũng có trạng thái xung đột giữa chồng và vợ;
có tranh chấp suốt ngày đêm. Và đây là điều chúng ta gọi là «tình yêu.»
Điều không may là cả chồng
lẫn vợ đều không hiểu nguyên nhân thực của sự căng thẳng, của xung đột. Mỗi
người đều nghĩ họ đã chọn đôi lầm. Chồng nghĩ mọi thứ đáng sẽ tốt hơn nếu anh
ta cưới người đàn bà khác, còn vợ nghĩ mọi thứ chắc có lẽ đã tốt nếu cô ấy cưới
người đàn ông khác. Tôi muốn bảo bạn rằng đây là kinh nghiệm của mọi đôi trên
thế giới này. Nếu như bạn được cho cơ hội để đổi chồng vợ mình, tình huống chắc
cũng không thay đổi chút gì. Nó sẽ vẫn cũng như việc đổi vai khi khênh quan tài
ra nghĩa địa vậy: bạn sẽ cảm thấy nhẹ vai trong một chút, nhưng thế rồi bạn sẽ
để ý rằng trọng lượng lần nữa lại trở thành như cũ. Kinh nghiệm ở phương Tây,
nơi li dị cực kì phát triển, là ở chỗ vợ mới, trong một thời gian rất ngắn, lại
chứng tỏ giống hệt như vợ cũ - và trong vòng nửa tháng, chồng mới cũng tỏ ra là
như chồng cũ thôi. Nguyên nhân không tìm được ở trên bề mặt, mà ở sâu bên dưới.
Nguyên nhân chăng có liên quan gì tới cá nhân, với đàn ông hay đàn bà; nguyên
nhân là ở chỗ hôn nhân là cuộc hành trình, quá trình. Hôn nhân không phải là
mục tiêu chẳng phải là mục đích. Mục đích sẽ chỉ được đạt tới khi người phụ nữ
trở thành mẹ và người đàn ông trở thành con.
Một người bạn đã hỏi điều
gì đó trong mối quan hệ với câu hỏi này. Anh ấy nói rằng có thể hỏi tôi về
Thượng đế, nhưng không về dục. Anh ấy nói rằng anh ấy và một số bạn bè anh ấy
đã tới đây để nghe về Thượng đế và do đó tôi nên nói về Thượng đế. Có lẽ họ
không nhận biết rằng thật là vô ích mà đi hỏi ai đó về Thượng đế khi họ thậm
chí không xem xét tới thẩm quyền về dục. Bạn có hỏi ai đó về đỉnh vàng son mà
người đó lại chẳng biết gì về nền cơ sở trước nhất không? Nếu điều tôi phải nói
về dục là không chấp nhận được với bạn, thế thì bạn không nên hỏi tôi về Thượng
đế. Nếu tôi cho rằng nói về bước đầu tiên là không thích hợp, thế thi làm sao
tôi có khả năng nói về bước cuối cùng?
Tâm lí đằng sau câu hỏi này
là ở chỗ
Bởi vì con người đã bị bao
bọc hoàn toàn trong dục nên người đó chẳng bao giờ cảm thấy cuộc hành trình của
mình được hoàn tất. Chừng nào mà Rama còn chưa đạt tới được, chừng nào mà thăng
hoa còn chưa được đạt tới, tìm kiếm của người đó sẽ không bao giờ dừng cả. Và
cuộc truy tìm của những người chỉ trích
Bất kì khi nào bạn quan sát
một người tụng tên Rama, nhìn vào người ấy thật gần: đằng sau việc lẩm nhẩm
Rama sẽ là tiếng vọng của
Điều bắt buộc là phải biết
Bạn đang đứng ở đâu bây
giờ?
Bạn nói bạn khát khao làm
cuộc hành trình tới Rama? Tot.
Bạn nói bạn ham muốn đạt
tới Thượng đế?
Rất tốt.
Nhưng bạn đang đứng ở đâu
bây giờ?
Bây giờ bạn đang bị mắc kẹt
trong thèm khát dục; bây giờ bạn đang bị mắc kẹt trong dục - và chính từ quan
điểm này, từ nơi bạn đang ở bây giờ, bạn phải tiến bước đầu tiên đi lên. Điều
bắt buộc là bạn nhận ra nơi bạn đang ở bây giờ. Bằng việc chấp nhận sự kiện đơn
giản này, bằng việc hiểu thực tại mắc kẹt này, bạn cũng có thể thấy khả năng
cho tương lai. Để biết cái bạn có thể đạt tới, điều quan trọnglà biết bạn đang
là gì.
Đe đạt tới bước cuối cùng,
điều cần thiết là đi bước thứ nhất - bởi vì bước thứ nhất là để lát đường cho
bước thứ hai và, chung cuộc, cho bước cuối cùng của cuộc hành trình. Neu bước
thứ nhất mà bước theo hướng sai, thi bạn có thể chẳng bao giờ đạt tới cái đích
đã chủ định của minh; thay vì thế bạn có thể kết thúc trong vùng hoang dã. Và
do vậy, nếu bạn muốn đạt tới điều tối thượng, thì điều quan trọng cho bạn là
hiểu
Tôi cũng được thông báo qua
một bức thư rằng ý kiến của Freud về dục có thể có giá trị và chấp nhận được,
nhưng họ hỏi ý kiến của tôi có thể được coi là đúng và chân thành không.
Làm sao bạn có thể quyết
định được liệu tôi là người trung thực và chân thành hay không? Trong mối nối
này, bất kì cái gì tôi nói, nó đều sẽ không quyết định được bởi vì bản thân tôi
là chủ đề cho sự xem xét. Nếu tôi nói tôi trung thực thì điều đó là vô nghĩa.
Cũng vô nghĩa nốt nếu tôi nói tôi không trung thực, bởi vì chính chủ đề đang
tranh luận là liệu người đưa ra những phát biểu này có là người trung thực hay
không. Cho nên bất kì điều gì tôi nói trong ngữ cảnh này đều sẽ vô nghĩa; nó sẽ
vô ích. Tôi nói, các kinh nghiệm với dục và tìm ra cho bạn liệu tôi là trung
thực hay không. Bạn sẽ đi tới hiểu biết chân lí trong phát biểu của tôi khi bạn
đạt tới kinh nghiệm cho chính bạn. Không có cách nào khác.
Chẳng hạn, nếu tôi nói với
bạn về kĩ thuật bơi nào đó, bạn có thể hoài nghi liệu phương pháp của tôi có
khả thi hay không. Lời đáp của tôi cho điều đó sẽ là yêu cầu bạn tới chỗ bạn có
thể lội vào dòng sông. Nếu lòi khuyên của tôi có ích trong việc giúp bạn bơi
qua sông, thế thì bạn sẽ biết rằng điều tôi đã nói chẳng vô ích cũng không phải
là không chân thành.
Còn việc liên quan tới
Freud, tôi muốn giải thích cho người bạn đặc biệt này rằng hoàn toàn có thể là
Freud không nhận biết về điều tôi đang nói cho các bạn ở đây. Freud là một
trong vài người nhìn xa đã hướng dẫn nhân loại đi theo hướng giải phóng dục,
nhưng ông ấy không có bất kì ý tưởng nào rằng dục tâm linh tồn tại. Tri thức mà
Freud đã hệ thống hoá là tri thức về dục ốm yếu; nghiên cứu của ông ấy là với
bệnh hoạn. Freud là một loại bác sĩ và những phát hiện của ông ấy đã được dùng
như cách trị liệu, phân phát nhỏ giọt cho người ốm. Freud đã không nghiên cứu
dục bình thường, lành mạnh. Ông ấy là một học giả nghiên cứu giải quyết các căn
bệnh, sự truy lạc, và tâm trí ông ấy chủ yếu hướng về trị liệu, chữa chạy.
Do đó, nếu bạn nhất quyết
xác nhận tính chân lí của điều tôi nói, thì bạn sẽ phải quay sang triết lí của
Mật tông. Mật tông đã tiến hành sớm sủa những cố gắng để tâm linh hoá dục, và,
mặc dầu chúng ta cấm việc suy nghĩ về Mật tông từ hàng nghìn năm trước đây,
những tượng đài ở Khajuraho và đền đài ở Puri và Konarak vẫn là những vật chứng
sống. Bạn đã bao giờ ở Khajuraho chưa? Bạn đã bao giờ thấy những hình ảnh ở đó
chưa? Nếu rồi, thế thì bạn phải đã kinh nghiệm hai hiện tượng kì diệu. Thứ
nhất, thậm chí sau khi thấy những hình ảnh các đôi trần truồng đang giao hợp, bạn
sẽ không cảm thấy bất kì cảm giác thô bỉ tục tĩu nào; bạn sẽ không thấy bấy kì
cái gì xấu hay tồi trong những hình ảnh đàn ông đàn bà trần truồng giao hợp. Và
điều thứ hai là ở chỗ bạn sẽ kinh nghiệm cảm giác an bình. Cảm giác về sự
thiêng liêng sẽ bao bọc lấy bạn. Phản ứng của bạn sẽ làm bạn ngạc nhiên. Những
người thấy đã tạo ra các bức tượng này chính là những người đã thấy và biết về
dục tâm linh một cách mật thiết.
Nếu bạn thấy một người đang
bị cuốn hút trong dục, nếu bạn nhìn vào khuôn mặt người đó và vào mắt người đó,
thì người đó sẽ có vẻ xấu xí, đáng sợ, thú vật; bạn sẽ thấy sự thèm khát rối
loạn và dữ tợn ở đó. Khi người phụ nữ thấy người đàn ông tiến lại gần cô ấy, và
anh ta tràn đầy những thèm khát, thậm chí anh ta có yêu mến cô ấy, cô ấy cũng
sẽ thấy kẻ thù trong anh ta chứ không phải người bạn. Anh ta thậm chí sẽ không
có vẻ con người với cô ấy; anh ta sẽ giống như sứ giả từ địa ngục. Nhưng trên
khuôn mặt của những bức tượng đó bạn sẽ thấy hình bóng vinh quang của Phật, sự
phản chiếu cao thượng của Mahavira. Sự điềm tĩnh và thanh thản trên gương mặt
của những bức tượng đó là của samadhi. Sự thiêng liêng thanh thản phát ra từ
họ. Chẳng khác gì con sóng của an bình vĩnh hằng bao quanh bạn nếu bạn thiền về
những bức tượng này. Bạn sẽ kính nể.
Nếu bạn sợ rằng dục sẽ tràn
ngập bạn sau khi thấy các bức tượng trần truồng ấy, tôi xin bạn, đến thẳng
Khajuraho không chậm trễ gì hơn. Khajuraho là tượng đài duy nhất trên trái đất
này, ấy vậy mà về sau các nhà đạo đức như Shree Purshottamdas Tandon và đồng nghiệp
của ông ấy lại có ý kiến rằng những bức tường của Khajuraho nên được che bằng
lớp đất nung bởi vì họ tin những hình ảnh đó làm cho mọi người động dục. Tôi
kinh hãi khi nghe thấy điều này! Những người xây dựng Khajuraho đã có mục đích,
và đó là ở chỗ nếu mọi người ngồi trước những bức tượng đó và thiền về chúng,
họ sẽ thoát khỏi khao khát dục. Trong hàng nghìn năm nay những hình ảnh đó đã
là chủ đề cho thiền. Nó nêu ra tấm gương kì diệu cho chứng ta, rằng những người
thái quá về dục nên được yêu cầu đi tới các ngôi đền Khajuraho, để thiền về các
tượng này, để làm mất minh trong chúng.
Mặc dầu chứng ta thường
quan sát cùng chân lí này trong kinh nghiệm con người thông thường, chúng ta
vẫn không thực sự có khả năng thấy nó. Chẳng hạn, nếu bạn đi ngang qua và thấy
hai người đang cãi nhau trên đường, bạn cảm thấy muốn dừng lại và quan sát trận
khẩu chiến. Tại sao? Bạn đã bao giờ nghĩ về điều bạn thoát ra khỏi việc nhìn
người khác đánh nhau chưa? Dẹp cả đống việc sang bên, bạn sẽ dừng lại đến nửa
giờ để quan sát mọi người đánh nhau. Bạn cũng đi xem đấm bốc nữa. Tại sao? Bạn
có lẽ không nhận biết rằng chứng có hiệu quả trị liệu. Bằng việc quan sát hai
người đánh nhau, bản năng đánh nhau ăn sâu vẫn tồn tại trong bạn được thoả mãn.
Nó tan biến đi; nó bị tống ra, và bạn trở nên bình tĩnh hơn. Nếu người ta ngồi
và thiền với tâm trí an bình theo những hình ảnh giao hợp, cái điên cuồng bên
trong, cái dâm dục điên khùng của con người có thể bay hơi đi.
Một người tới bác sĩ tâm
thần với một vấn đề: anh ta rất lấy làm khó chịu với ông chủ mình. Nếu ông chủ
anh ta nói điều gì với anh ta là anh ta lập tức trở nên giận dữ và cảm thấy
muốn tháo giầy ra và đánh vào ông chủ.
Nhưng, làm sao bạn có thể
đánh ông chủ mình được? Có người nào lại không cảm thấy thích đánh ông chủ mình
vào chỗ nào đó không? Nhân viên như vậy cũng hiếm hoi đấy.
Trong bất kì trường hợp
nào, người này cứ kìm nén ham muốn đánh ông chủ mình, nhưng anh ta bắt đầu phát
triển phức cảm về nó, và sợ minh có thể thực tế đánh ông chủ một ngày nào đó,
anh ta bắt đầu để giầy ở nhà. Nhưng anh ta không thể quên đôi giầy được. Bất kì
khi nào anh ta thấy ông chủ minh, tay anh ta lại tự động đưa về chân. Nhưng may
mắn là đôi giầy đã được bỏ ở nhà, và anh ta cảm thấy chút ít dễ dàng hơn bởi vì
anh ta biết rằng một hôm, trong cơn điên cuồng, anh ta chợt có thể tháo giầy ra
và đánh nó vào ông chủ.
Nhưng anh ta đâu có tự giải
phóng được minh khỏi đôi giầy chỉ bởi việc để chúng ở nhà; chúng tiếp tục hiện
ra lù lù trong tâm thức anh ta. Nếu anh ta đang nghịch với cái bút chì, anh ta
vẽ giầy lên giấy; trong lúc rỗi rãi, anh ta phác hoạ hình dáng chiếc giầy.
Chiếc giầy choán toàn bộ ý nghĩ anh ta, và anh ta sợ đến chết về việc anh ta sẽ
tấn công ông chủ một khi nào đó.
Tại nhà, anh ta bảo gia
đình mình là tốt hơn cả là anh ta không đi làm nữa. Bây giờ, điều kiện tâm trí
của anh ta đến mức là anh ta không cần chiếc giầy riêng nữa: anh ta có thể lấy
giầy của bất kì ai để ném vào ông chủ; tay anh ta thậm chí đã bắt đầu đưa xuống
chân của đồng nghiệp. Đến điểm này, gia đình anh ta quyết định đã đến lúc phải
đưa anh ta đến nhà tâm thần. Và thế là anh ta tới.
Bác sĩ tâm thần nói bệnh
của anh ta chẳng là gì để phải lo nghĩ nhiều, rằng bệnh đó là chữa được. Ông ta
khuyên anh chàng hãy treo bức ảnh của ông chủ tại nhà rồi đánh giầy vào đó năm
lần mỗi sáng. Bức ảnh bị đánh một cách đều đặn, trước khi anh ta tới văn phòng,
và hơn nữa, anh ta không bỏ lỡ ngày nào. Cái lễ này được tôn trọng hàng ngày,
cũng giống như cầu nguyện buổi sáng, và thế rồi, sau khi trở về từ văn phòng
mỗi ngày, quá trình này lại được lặp lại.
Phản ứng đầu tiên của người
này là, «Vô nghĩa làm sao!» Mặc dầu
anh ta đã ngạc nhiên với cái ý tưởng này, anh ta vẫn cảm thấy rất sung sướng về
nó. Bức ảnh treo đó và, theo đó, anh ta bắt đầu buổi lễ theo qui định.
Vào ngay ngày đầu tiên, khi
anh ta tới văn phòng sau khi đánh bức ảnh năm lần, anh ta để ý một cảm giác lạ:
anh ta đã không cảm thấy giận ông chủ như anh ta đã giận. Và, trong vòng nửa
tháng, anh ta đã trở nên rất lễ phép với ông chủ. Ông chủ anh ta cũng để ý thấy
thay đổi trong anh ta, nhưng tất nhiên ông ta đâu biết điều vẫn đang xảy ra.
Ông ta cũng được nhân viên này nói cho rằng anh ta đã trở nên rất lễ phép, rất
vâng lời và rất tốt thực sự về sau và ông ấy muốn biết điều gì đã xảy ra. Nhân
viên này đáp, «Xin đừng hỏi tôi về điều
đó nếu không mọi thứ sẽ rối tinh lên. Tôi không thể nói cho ông được.»
Chân lí đằng sau câu chuyện
này là gì? Liệu mọi thứ có thể được đạt tới chỉ bởi việc đánh bức ảnh không? Có
đấy - bằng việc đánh bức ảnh, ám ảnh của người này về việc đánh ông chủ bằng
chiếc giầy đơn giản tan biến đi, mờ nhạt đi.
Những ngôi đền giống như
đền ở Khajuraho, Konarak và Puri nên có ở mọi xó xỉnh và ngóc ngách của đất
nước này. Chẳng có gì quan trọng để tìm kiếm ở các đền khác; chẳng có gì khoa
học, không kế hoạch, không ý nghĩa trong chúng. Chúng không cần chút nào cả.
Nhưng sự tồn tại của các đền Khajuraho và những đền khác giống như chứng lại
tràn đầy ý nghĩa. Bất kì ai có tâm trí quá băn khoăn về dục đều nên tới đó và
thiền. Khi anh ta trở lại, anh ta sẽ sáng lên Uong tim; anh ta sẽ được an bình.
Những người theo Mật tông
cố gắng biến đổi dục thành tâm linh, nhưng những người thuyết giáo về đạo đức
trong đất nước này không cho phép thông điệp đó tới đám đông. Đây cũng là những
người muốn chấm dứt bài nói của tôi.
Trong lần tôi trở lại
Jabalpur, ba ngày sau bài nói của tôi ở thính phòng Bharatiya Vidya Bhavan đây
tại Bombay, tôi đã nhận được một bức thư từ một người bạn bảo tôi rằng nếu tôi
còn tiếp tục những bài nói này thì tôi sẽ bị bắn. Tôi muốn đáp lại anh ta, nhưng
những quí vị hung hăng dường như là kẻ hèn nhát: anh ta chẳng kí vào thư cũng
không cho địa chỉ; anh ta có lẽ sợ tôi sẽ báo vấn đề này với cảnh sát. Dầu sao
đi chăng nữa, nếu anh ta có mặt ở đây, thì anh ta cũng nên chấp nhận lời đáp
của tôi bây giờ. Thậm chí nếu anh ta có ở đây, tôi cũng chắc chắn anh ta hoặc
là ẩn sau bức tường hay cây cối. Neu anh ta ở đâu đó xung quanh tôi muốn bảo
anh ta rằng tôi không định đi báo sự đe doạ đó, nhưng anh ta nên cho tôi tên
anh ta và địa chỉ để cho tôi có thể ít nhất cũng gửi cho anh ta lời đáp. Nhưng,
nếu anh ta thậm chí còn không dám làm nhiều đến thế, tôi sẽ trao cho anh ta lời
đáp của tôi ở đây. Anh ta nên nghe một cách chăm chú.
Anh có có thể không nhận
biết được về điều này, nhưng ngay chỗ đầu tiên anh ta không nên vội vàng bắn
tôi, bởi vì với một phát đạn, điều tôi đang nói sẽ trở thành chân lí vĩnh hằng.
Nếu như Jesus không bị đóng đinh, thế giới đã quên lãng ông ấy từ lâu rồi. Theo
cách đó, bức hại đã đem lại ích lợi cho Jesus. Tác giả George Gouzette nói rằng
Jesus đã lập kế hoạch cho việc đóng đinh của mình. Bản thân Jesus muốn bị đóng
đinh bởi vì, thế thi, mọi lời ông ấy đã thuyết giảng sẽ trở thành chân lí sống
cho nhiều thời đại sắp tới và sẽ có ích cho hàng triệu người.
Điều này là hoàn toàn có
thể. Judas, người đã bán Jesus lấy ba mươi đồng tiền, là một trong những tông
đồ được yêu mến nhất của ông ấy. Không thể tin được rằng một người đã để ra
biết bao nhiêu năm ở cùng với Jesus lại bán mình để được số tiền nhỏ mọn thế
trừ phi là bản thân Jesus đã gợi ý rằng ông ta làm điều đó, trừ phi là bản thân
Jesus đã gợi ý ông ta đổi phe và thu xếp sự bức hại để cho lời của ông ấy có
thể trở thành nguồn nước cam lồ vĩnh hằng, giải thoát hàng triệu người.
Có thể đã có ba trăm triệu
người Jaina trên thế giới và không chỉ ba hiệu, như trường hợp hiện nay, nếu
Mahavữa bị đóng đinh. Nhưng Mahavữa qua đời một cách an bình; ông ấy có lẽ
không bao giờ nghĩ về việc chết hên cây thập tự. Không ai cố làm điều đó với
ông ấy, bản thân ông ấy cũng không cố gắng thu xếp điều đó. Không Phật, không
Mohammed không Rama không
Điều thứ hai là ở chỗ anh
không nên lo nghĩ quá nhiều về điều đó, bởi vì tôi không có ý định chết hên
giường. Khi thời gian đúng tới, tôi sẽ làm hết sức mình để thấy rằng người này
hay người nọ bắn tôi. Anh ta không nên hấp tấp; bản thân tôi sẽ thu xếp việc
đó. Cuộc sống là có ích nhưng khi một người bị ám sát, thì cái chết cũng trở
nên có ích. Cái chết do đạn bắn thường có thể hoàn thành điều cuộc sống không
thể làm được.
Mọi người bao giờ cũng lặp
lại cùng sai lầm này - những người trao thuốc độc cho Socrates, những người ám
sát Mansoor, những người đóng đinh Jesus. Đấy toàn là hành động trẻ con, tất cả
đều tự chết yểu. Và cũng mới gần đây thôi, người đã bắn vào Gandhi cũng không
nhận biết rằng không một tín đồ nào của Gandhi có thể đã thành công trong việc
kéo dài kí ức về Gandhi tới mức rằng anh ta đã thành công bởi hành động ám sát
ông ấy. Gandhi khoanh tay trong cử chỉ cúi mình khi ông ấy bị bắn và chết. Cái
cúi mình đó, cái khoanh tay đó, là rất có ý nghĩa. Nó là mang tính diễn đạt
theo nghĩa rằng đệ tử cuối cùng và tốt nhất của Gandhi chung cuộc đã tới: người
sẽ làm cho Gandhi thành bất tử. Thượng đế đã gửi tới người cần thiết.
Không ai chết bởi việc bị
ám sát cả; điều đó chỉ giúp làm cho người ta thành bất tử. Âm mưu của cuộc sống
là phức tạp; câu chuyện của cuộc sống tràn đầy với những tình trạng chưa quyết
định: mọi thứ không đơn giản như chúng dường như vậy. Người chết trên giường
thì chết mãi mãi, trong khi người chết bởi viên đạn ám sát lại chẳng bao giờ
chết cả.
Khi thuốc độc được chuẩn bị
cho Socrates, một số trong các bạn ông đã hỏi nên xử trí thân thể ngài thế nào
sau đó. «Nên đem chôn nó đi hay đem thiêu
hay thế nào?» họ hỏi. Socrates cười to và nói, «Các ông bạn ngốc nghếch ơi! Các ông không biết điều đó, nhưng các ông
sẽ chẳng bao giờ có thể chôn ta được đâu. Ta sẽ sống thậm chí khi tất cả các
ông không còn nữa. Mà cái mẹo là, ta đã chọn cái chết chỉ để sống mãi mãi!»
Cho nên, anh bạn tôi ơi,
nếu anh ở đây, không nên hành động một cách vô suy nghĩ, nếu không anh sẽ nhanh
chóng nhận ra mình là kẻ thua cuộc. Tôi sẽ chẳng bị hại gì cả; tôi không phải
là một trong những người mà đạn có thể phá huỷ được. Tôi là một trong những
người sẽ sống với đạn. Anh bạn không nên vội vàng bắn tôi. Anh bạn không nên
bối rối nữa, vì tôi sẽ làm hết sức minh để không chết trên giường. Loại chết đó
không thích đáng. Loại chết đó là cái chết không xứng đáng. Và điểm thứ ba anh
bạn cần phải nhớ là đừng sợ kí tên vào thư, cũng đừng sợ cho địa chỉ. Nếu tôi
bị thuyết phục có ai đó đủ bạo dạn và đủ sẵn sàng để bắn tôi, tôi sẽ giữ lời
hứa không báo cho ai cả, để cho về sau anh ấy sẽ không bị dính líu.
Nhưng chẳng có gì rất kì lạ
về người này cả. Anh ta đã viết với sự tin chắc anh ta đang bảo vệ tôn giáo.
Anh ta viết bởi vì anh ta nghĩ tôi muốn phá huỷ tôn giáo, còn anh ta muốn khôi
phục tôn giáo. Chủ định của anh ta cũng không có ác tâm. Cảm giác của anh ta là
rất chân thành và, với anh ta là rất tôn giáo.
Những người được gọi là tôn
giáo như vậy đều đang chơi với xúc động của thế giới. Chủ định của họ có thể
rất tốt nhưng trí thông minh của họ lại rất nghèo nàn. Với nhiều thời đại,
những người tự cho minh là phải như vậy và loại người kiểu họ đã bóp chết việc
nở hoa đầy đủ của chân lí, và bởi vì tri thức đã bị kiềm chế theo cách tương
tự, nên dốt nát đang lan rộng. Chúng ta dò dẫm trong bóng tối; chúng ta lạc
trong đêm tối của dốt nát. Những nhà thuyết giảng đạo đức này đã xây dựng bục
giảng kinh cao để từ đó họ làm lễ cho chứng ta.
Nhưng cũng đúng là khi tia
sáng của chân lí bắt đầu rạng lên trong các kiếp sống chứng ta, cái gọi là
những người linh thiêng sẽ thất nghiệp. Khi chúng ta có khả năng sinh ra mối
quan hệ sống với Thượng đế; khi chúng ta đi tới biết samadhi; khi các kiếp sống
tầm thường, thông thường của chúng ta bắt đầu được biến đổi thành cuộc sống
thiêng liêng, sẽ không còn công việc gì cho các nhà đạo đức và thuyết giáo nữa.
Nhà thuyết giáo chỉ có tru thế chừng nào mọi người còn dò dẫm trong bóng tối.
Bác sĩ là cần tới khi mọi
người bị ốm, nhưng bác sĩ sẽ thừa nếu mọi người hết ốm. Giống như nghề thuyết
giáo, nghề thuốc phát đạt theo xung đột bên trong, bởi vì cuộc sống của bác sĩ
phụ thuộc vào người bị bệnh. Bác sĩ chữa cho bệnh nhân ở phía ngoài, nhưng bên
trong ông ta hi vọng họ cứ ốm. Và khi có bệnh dịch, ông ta cám ơn Thượng đế về
việc đó.
Tôi đã nghe một câu chuyện:
Một đêm một nhóm bạn bè có
một bữa tiệc lớn. Ăn và uống, họ chè chén say sưa cho tới đầu giờ sáng. Khi họ
bắt đầu ra về, người chủ khách sạn bảo vợ cám ơn Thượng đế do việc đưa họ tới
theo số đông. Nếu khách cứ xô đến tiếp tục họ sẽ trở nên giầu, ông ta bảo với
vợ. Người chủ trì, khi anh ta trả tiền, đã yêu cầu ông chủ khách sạn cầu nguyện
cho sự thịnh vượng của công việc kinh doanh nữa, để cho họ có thể tới lần nữa.
Ông chủ khách sạn hỏi, «Nhân tiện, thưa ông, ông làm nghề gì ạ?»
«Tôi làm dịch vụ lễ tang,» anh ta nói. «Việc kinh doanh của tôi phát đạt nhất khi mọi người chết.»
Tương tự, nghề bác sĩ có
thể là cứu chữa người, nhưng càng nhiều người ngã bệnh ông ta càng làm tiền
nhiều. Bên trong, ông ta hi vọng bệnh nhân minh đừng khỏi chóng quá. Và do vậy
phải mất thời gian để bệnh nhân được chữa chạy, đặc biệt là nhà giầu. Bệnh nhân
nghèo khỏi nhanh hom bởi vì bác sĩ không kiếm được nhiều nếu người nghèo ốm
trong thời gian lâu. Lợi nhuận là từ khách hàng giầu, và do vậy ông ấy làm chậm
rãi khi chữa cho người giầu. Dầu sao đi chăng nữa, người giầu bao giờ cũng
không khoẻ; họ là câu trẳ lời cho lời cầu nguyện của bác sĩ.
Người thuyết giáo cũng cùng
một lớp. Người ta càng vô đạo đức, càng có nhiều phần tử chống xã hội, hỗn loạn
càng lan rộng, bục giảng kinh của ông ta càng trở nên cao hom - bởi vì thế thì
có nhiều nhu cầu với ông ta hom để cổ vũ mọi người tôn trọng bất bạo lực, trung
thực, hành xử lưomg thiện, tôn trọng qui định này, trung thành với qui tắc kia,
và vân vân. Nếu mọi người đều phải cả, đều biết kiềm chế, có kỉ luật, an bình,
trung thực và linh thiêng, thi nghề của người thuyết giáo sẽ không tồn tại nữa.
Và tại sao lại có lắm kẻ
thuyết giáo và cái gọi là lãnh tụ tôn giáo ở Ấn Độ đến thế - còn nhiều hom ở
bất kì đâu khác trên toàn thế giới này? Tại sao, trong mỗi và mọi làng mạc và
trong mỗi và mọi ngôi nhà, đều có học giả, guru, swami hay tu sĩ? Tại sao có số
đông lãnh tụ tôn giáo trên đất nước này thế?
Người ta không nên giả
thiết chúng ta là một dân tộc tôn giáo sâu sắc bởi vì chúng ta có nhiều vị
thánh và guru thế. Đấy là một sự kiện rằng chúng ta, ngày nay, đang là một
trong những quốc gia phi tôn giáo và vô đạo đức nhất trên thế giới. Đó là lí do
tại sao biết bao nhiêu người thuyết giáo tìm thấy cơ hội vàng ở nước chúng ta.
Thuyết giảng đã trở thành hình ảnh quốc gia của chúng ta. Một người bạn của tôi
đã gửi cho tôi một bài báo lấy từ một tạp chí của Mĩ. Anh ấy
cần ý kiến của tôi về một
thiếu sót mà anh ấy đã để ý thấy nó. Đấy là bài báo khôi hài, nói rằng tính
cách quốc gia của bất kì nước nào đều có thể được biết chắc bằng việc làm cho
người của nước đó bị say. Nếu người Hà lan say, bài báo nói, người đó sẽ chộp
lấy thức ăn và không để còn lại cái gì trên bàn ăn; ngay khi anh ta uống thì
anh ta đã bận ăn trong hai đến ba giờ. Neu người Pháp uống, anh ta trở nên bất
ổn; anh ta muốn hát và nhảy múa. Nếu người Anh say, anh ta sẽ chui vào một góc
và giữ yên mình ở đó. Người Anh thông thường im lặng và khi anh ta bị say thì
anh ta trở nên càng thờ ơ hom. Đấy là các phản ứng điển hình của nhiều quốc
tịch, theo bài báo.
Nhưng bởi sơ suất hay dốt
nát, chẳng có nói gì tới Ấn Độ cả. Bạn tôi hỏi tôi phải nói gì về tính cách Ân
Độ; anh ấy hỏi tôi điều gì sẽ xảy ra nếu người Ân Độ say khướt cò bợ. Tôi đã
viết cho anh ấy rằng câu trả lời đã nổi tiếng thế giới rồi: khi người Ấn Độ bị
say thì anh ta lập tức bắt đầu thuyết giáo. Đây là tính cách quốc gia của chứng
ta.
Hàng không dứt các nhà
thuyết giáo, thầy tu, nhà sư và guru này là dấu hiệu cho bệnh lan rộng; nó là
chỉ dẫn về vô đạo đức lớn. Và điều kì lạ nhất là ở chỗ, trong tâm điểm trái tim
người ta, không một lãnh tụ nào trong số này muốn vô đạo đức bị diệt chủng,
muốn bệnh này bị xoá bỏ đi - bởi vì nếu và khi nó được chữa lành, thì nhà
truyền giáo sẽ không còn việc gì để làm nữa. Khao khát bên trong của họ là ở
chỗ bệnh này cứ tiếp tục, ở chỗ ốm yếu này cứ tăng lên.
Cách dễ dàng nhất để cho phép
bệnh này tiếp tục không bị kiểm tra là kìm hãm phát triển tri thức bao quát về
cuộc sống, và doạ con người để đừng mong muốn hiểu các khía cạnh sâu sắc hơn và
ý nghĩa hơn của cuộc sống. Và chính dốt nát về những điều này tự động gây ra
việc lan toả của vô đạo đức, truỵ lạc và thoái hóa. Nếu mọi người có thể cố
gắng nhận ra và biết tới những khía cạnh chói sáng và sâu sắc này của cuộc
sống, thế thì phi tôn giáo và những bệnh tật hệ quả của nó sẽ bắt đầu tan biến,
từng cái một.
Tôi muốn lôi kéo chú ý của các
bạn vào sự kiện rằng dục là khía cạnh của cuộc sống có trách nhiệm nhất cho cái
vô đạo đức. Nó bao giờ cũng là nguyên nhân cơ bản và có ảnh hưởng nhất của hư
hỏng, truy lạc và đờ đẫn trong con người. Và do vậy các nhà lãnh đạo tôn giáo
chưa bao giờ muốn nói về nó cả.
Một người bạn khác của tôi
đã gửi một thông điệp nói rằng không vị thánh hay guru nào đã từng nói về dục
cả. Anh ta viết rằng sự kính trọng cao của anh ta với tôi đã kém đi bởi vì việc
nói của tôi về dục. Tôi muốn bảo với anh ấy chẳng có lí do gì để mà thất vọng
trong tôi cả. Trước hết, nếu bạn có lần đã kính trọng tôi, thì đấy là sai lầm
của bạn. Tại sao phải kính trọng tôi? Động cơ của bạn là gì? Khi nào tôi đã yêu
cầu bạn kính trọng? Nếu bạn kính trọng tôi, đấy là lỗi của bạn; nếu bạn không
thiên vị nữa; đấy là quyền của bạn. Tôi không phải là mahatma, tôi cũng chẳng
thiên về người nào.
Neu như tôi có hơi chút ham
muốn để trở thành mahatma hay guru, thì tôi sẽ không bao giờ chọn chủ đề này
ngay chỗ đầu tiên. Người ta không bao giờ có thể trở thành mahatma nếu người ấy
không rất láu cá trong việc chọn lựa chủ đề cho bài nói của mình. Tôi chưa bao
giờ là mahatma cả, tôi không là mahatma, và tôi chắc chắn không muốn trở thành
mahatma - bản thân ham muốn đó là phóng chiếu của bản ngã tinh vi, tinh tế. Tôi
là một con người, và điều đó là đủ tốt cho tôi rồi. Chẳng lẽ không đủ sao, chỉ
là một con người thôi? Con người không thể hạnh phúc mà không cưỡi lên đầu lên
cổ người khác, không áp đặt bản thân mình lên người khác, không đòi hỏi quyền
lực dưới dạng này dạng khác được sao? Con người không thể hạnh phúc đơn giản
chỉ bởi việc vẫn còn là một con người được sao? Trong bất kì tình huống nào tôi
cũng thấy bản thân mình hạnh phúc và hài lòng.
Tôi mong trớc về sự cao
thượng trong nhân loại; tôi muốn thấy con người vĩ đại hơn. Chẳng lẽ việc trở
thành con người, đạt tới toàn bộ phạm vi của nhân cách lại không là điều vĩ đại
sao? Mọi người đều có thể trở thành vĩ đại; mọi người đều có khả năng trở thành
vĩ đại theo nghĩa đúng đắn của từ này. Thời của các mahatma và các guru đã qua
rồi; họ không còn được cần thêm nữa. Một nhân loại vĩ đại là điều bản chất; có
nhu cầu dành một giờ này cho nhân loại vĩ đại. Đã có nhiều con người vĩ đại,
nhưng chứng ta thu được gì từ họ? Nhu cầu không phải là ở người vĩ đại, mà là
nhân loại vĩ đại, loài người vĩ đại.
ít nhất thì một người cũng
vỡ mộng; ít nhất thi một người đã đi tới biết rằng mình không phải là người vĩ
đại. Đây là giảm nhẹ lớn, vỡ mộng của con người này. Anh ta đã viết cho tôi để
khích tôi mang quyền mahatma; anh ta nói tôi có thể trở thành một guru lớn nếu
tôi chấm dứt thảo luận về những chủ đề như vậy. Mãi cho tới nay, các mahatma và
guru đã bị lừa phỉnh bởi cách như vậy, và xem như kết quả, những người vĩ đại
nhưng yếu ớt đó đã không thảo luận về các chủ đề có thể gây ra thảm hoạ cho
quyền làm guru của riêng họ, quyền làm mahatma của riêng họ. Trong mối quan tâm
của họ để cứu lấy vương miện của riêng mình, họ chưa bao giờ để ý tới việc họ
đã gây ảnh hưởng tai hại làm sao cho nhiều người.
Tôi không bận tâm tới việc
ở cái bệ cao nào đó. Tôi không mơ về nó; tôi không có ý định về một cái như
thế. Mặt khác, tôi lại quan ngại rằng ai đó có thể muốn làm tôi thành mahatma
một ngày nào đó.
Những ngày này, không thiếu
gì các guru và mahatma, và để được xem là một người như vậy thì điều rất quan
trọng là phải chấp nhận vị thế đúng. Nó bao giờ cũng là như vậy. Nhưng vấn đề
nan giải không phải là việc có sẵn các mahatma, mà là làm sao con người đích
thực có thể tiến hoá được. Chúng ta có thể làm gì để đạt tới mục đích đó? Làm
sao chúng ta có thể áp dụng cho mình nhiệm vụ đó?
Tôi tin cậy và tin tưởng
rằng điều chúng ta đã thảo luận sẽ hướng dẫn bạn trên con đường đúng hướng tới
việc phá vỡ những rào chắn vẫn ngáng trên đường tiến hoá của con người đích
thực. Con đường này là thấy được; biến đổi dần dần của thèm khát dục trong bạn
là có thể. Dục của bạn có thể trở thành samadhi của bạn.
Bây giờ, như bạn hôm nay,
bạn là thèm khát của mình; bạn không phải là linh hồn mình. Bạn cũng có thể trở
thành linh hồn, nhưng chỉ bằng việc biến đổi dần dần tính dục của mình. Chỉ thế
thì cuộc hành trình của bạn tới Thượng đế mới có thể bắt đầu.
Nhiều câu hỏi tương tự khác
đã được gửi tới tôi, cho nên cho phép tôi xét duyệt vài điểm quan trọng.
Tôi đã nói các bạn phải cố
gắng có nhận biết liên tục về thoáng nhìn về samadhi trong giao hợp. Người ta
nên cố gắng nắm bắt lấy điểm đó, cái thoáng nhìn về samadhi đó loé lên giống
như tia chớp trong màn sương mờ của giao hợp, chỉ lung linh trong một giây
giống như ma trơi và thế rồi tan biến. Nỗ lực của bạn phải là để biết nó, trở
nên quen thuộc với nó, giữ lấy nó. Nếu bạn có thể tạo ra tiếp xúc đầy đủ, dù
chỉ một lần, trong khoảnh khắc đó bạn sẽ biết rằng bạn không là thân thể, rằng
bạn vô thân thể. Trong phần thời gian đó bạn là cái gì đó khác: thân thể bị bỏ
lại đằng sau và bạn trở thành linh hồn, cái ta thực của bạn. Nếu bạn có thoáng
nhìn vào vinh quang đó cho dù chỉ một lần, bạn có thể theo đuổi nó, thông qua
dhyana, thông qua thiền, để thiết lập mối quan hệ sâu sắc và lâu dài với nó.
Thế thì con đường tới samadhi là của bạn. Và khi nó trở thành một phần của hiểu
biết của bạn, phần của tri thức của bạn và cuộc sống bạn, sẽ không còn chỗ cho
thèm khát nữa.
Một người bạn khác sợ về
điều có thể xảy ra cho con cái chúng ta, cho toàn bộ nòi giống chứng ta, nếu
chứng ta vứt bỏ dục như thế này. «Nếu mọi
người đều đạt tới vô dục qua samadhi,» anh ấy hỏi, «thì các thế hệ tương lai sẽ thế nào?»
Người ta có thể dứt khoát
tuyên bố rằng loại con cái hiện giờ đang được tạo ra sẽ không tồn tại nữa. Cách
thức sinh sản hiện tại là tốt để tạo ra mèo, chó và các con vật khác, nhưng
không đủ tốt cho con người. Đây là loại thái độ gì đối với sinh sản ? Đây là
loại chế tạo con trẻ gì mà không suy nghĩ thế? Loại sinh sản số đông này, sinh
sản ngẫu nhiên này là vô mục đích; nó là vô dụng. Và đám đông của chúng ta trở
nên đông đúc làm sao! Dân số chúng ta đã bùng nổ theo tỉ lệ không thể nào tin
được rằng nếu nó không được kiểm soát theo thời gian, thi các nhà khoa học nói
thậm chí sẽ không có đủ chỗ để di chuyển ngón chân bạn trong một trăm năm!
Trong một trảm năm bạn bao giờ cũng cảm thấy bạn đang ở giữa một loại tụ tập
nào đó. Bất kì khi nào bạn nhìn thì bạn cũng sẽ cảm thấy gặp gỡ đang tiếp diễn.
Triệu tập họp sẽ là không cần thiết.
Câu hỏi của người bạn đặc
biệt này là rất liên quan. Anh ấy có thể hỏi làm sao con cái sẽ được tạo ra nếu
vô dục trở thành thông dụng.
Tôi muốn trao cho anh ấy
một điều làm cho tình ngộ nữa, và bạn cũng nên chú ý: Con cái có thể được sinh
ra từ vô dục, nhưng toàn bộ mục đích và ý nghĩa của việc tạo ra con cái sẽ có
một chiều hướng mới. Thèm khát không phải là phương tiện đúng cho việc sinh sản
- vô dục là trung gian duy nhất đủ phân biệt. Cứ như nó bây giờ, sinh con cái
là ngẫu nhiên: bạn đi vào trong dục với động cơ nào đó khác; con cái chỉ là ngẫu
nhiên. Con cái là khách không mời, và bạn chỉ có thể có nhiều tình yêu với con
cái như bạn có với khách không trông đợi.
Và khách không mời đã được
đối xử như thế nào? Bạn chuẩn bị giường cho họ thoải mái và bạn phục vụ họ thức
ăn; bạn đón chào họ một cách lễ phép và bạn nuông chiều họ - nhưng mọi thứ đều
được làm theo phép xã giao; không có cảm giác về tình yêu bên trong. Ý nghĩ
thường xuyên của bạn là, «Khi nào những
cái chán ngắt này sẽ ra đi?»
Bạn đối xử với con cái
không mong muốn theo cùng cách đó, bởi một lí do đơn giản là bạn chưa bao giờ
muốn có chúng ngay chỗ đầu tiên. Bạn đang theo đuổi cái gì đó khác; chúng đơn
giản là sản phẩm phụ. Con cái ngày nay không phải là sản phẩm, chúng là sản
phẩm phụ. Chúng không được tạo ra, chúng tới cùng với dục như lớp vỏ bọc bao
lấy bắp ngô.
Và do vậy toàn bộ thế giới
đã từng cố gắng để bảo vệ dục khỏi những ngẫu nhiên đó. Các cách kiểm soát sinh
đẻ đã được phát triển ra từ thái độ này; trợ giúp phi tự nhiên đã được phát
minh ra để cho chúng ta có thể tận hưởng dục và, đồng thời, lại được an toàn
không sinh con. Trong nhiều thời đại nỗ lực đã được tiến hành để cứu nhân loại
khỏi cái gọi là cái xấu. Thậm chí kinh sách cổ Ayurvedic cũng nói tới các
phương thuốc. Nhà khoa học ích kỉ ngày nay cũng quan tâm tới cùng điều mà các
học giả Ayurvedic ba nghìn năm trước đây đã lo nghĩ.
Tại sao? Tại sao con người
lại tập trung vào nghiên cứu này? Con cái khởi động bão tố; con cái bật ra giữa
mọi điều; con cái đem tới gánh nặng về trách nhiệm, và cũng có mối nguy hiểm về
tính lãnh cảm của phụ nữ đối với dục sau khi sinh con.
Người ta không muốn có con.
Người ta có thể muốn có con nếu người đó chưa có, nhưng đấy không phải là vì
người đó yêu con cái, đấy là vì người đó yêu của cải. Khi một người muốn có
con, bạn chớ lầm trong việc tin rằng linh hồn người đó đang băn khoăn về đứa
con, về một con người mới và hồn nhiên. Anh ta đã cóp nhặt của cải của minh
bằng lao động vất vả. Ai mà biết được nó có thể thuộc về bàn tay ai sau khi anh
ta chết! Anh ta cần một kẻ thừa kế, người được sinh ra từ dòng máu riêng của
anh ta, để cứu lấy của cải của anh ta, để tận hưởng tài sản của anh ta. Không
ai muốn có con với mục đích chỉ là đứa con. Chúng ta cố gắng cứu mình tránh
khỏi chúng, nhưng chúng đơn giản cứ tới theo cách riêng của chúng. Chúng ta chỉ
muốn hưởng thú dục và trẻ con lại tạt vào! Con cái này là sản phẩm phụ của dục.
Chúng là ốm yếu, chúng yếu ớt, chúng mỏng manh, chứng là tấm màn che với nỗi
băn khoăn.
Con cái cũng có thể được
thụ thai bởi vô dục, nhưng chúng sẽ không là sản phẩm phụ ngẫu nhiên của dục.
Khi điều này xảy ra, dục sẽ là phương tiện để đem tới con cái nhưng nó sẽ không
là mục đích tự nó.
Bạn lên chiếc máy bay tới
Khi bạn đạt tới trạng thái
siêu tâm thức qua dục, khi bạn đã đạt tới brahmacharya, tới trạng thái giao cảm
với điều thiêng liêng, con bạn sẽ là sản phẩm thật, nó sẽ là sáng tạo thực sự!
Nhưng mãi cho tới nay, tâm trí khéo léo của con người đã tập trung vào việc xây
dựng nên những bộ máy bảo vệ để giúp cho anh ta tránh con cái, ấy vậy mà lại
cho phép hưởng thú dục đầy đủ nhất. Nỗ lực đáng phải được làm theo hướng ngược
lại. Nhưng chúng ta vẫn muốn duy trì chỗ ngồi của mình thậm chí sau khi chúng
ta đã đạt tới sân bay Palam ở
Tôi cũng muốn hỏi người này
tại sao anh ta lo nghĩ về việc cứu thế giới khỏi brahmacharya. Hiện tại anh ta
quá sợ hãi rằng mọi người trở thành brahmacharya có thể chấm dứt việc sinh ra
con cái và chấm dứt thế giới. Anh bạn của tôi ơi, nếu mọi sự như bây giờ, thì
khả năng của mọi người trở thành brahmacharya là bằng không. Và nó sẽ vẫn còn
như vậy, chừng nào mà sự nhẫn tâm này, sự bất kính đặc biệt và có ý thức này
đối với dục vẫn tồn tại. Không, anh bạn của tôi ơi, không có nguy hiểm cho thế
giới từ ngả đó. Nhưng khả năng diệt chủng đang tăng lên hàng ngày bởi những
việc sinh ngẫu nhiên, liên tục này. Neu bạn cứ sản sinh ra con cái theo kiểu
này thì thế giới chắc chắn sẽ đi tới kết thúc. Và bạn sẽ chẳng cần đến bom
nguyên tử hay bom khinh khí. Dân số cứ sinh sôi nẩy nở mãi thế này, sản phẩm
phụ khiêu dâm này của bầy sâu bọ sẽ tự nó huỷ diệt nó.
Con người mới, được sinh ra
từ brahmacharya, sẽ mang tầm vóc khác. Người đó sẽ có trường thọ mà chúng ta
không thể nào hình dung ra nổi. Sức khoẻ của người đó sẽ tuyệt vời; người đó sẽ
không bị bệnh tật. Hình hài và vóc dáng người đó sẽ giống như của những tượng
uy nghi. Và hương thơm thanh tao sẽ phát ra từ người ấy. Lòng tốt, tình yêu,
chân lí, cái đẹp và tôn giáo sẽ là tính cách của người đó. Người đó sẽ được
sinh ra với tôn giáo trong mình. Người đó sẽ là một loại hoá thân thiêng liêng.
Chúng ta đã sinh sản một
cách phi tôn giáo. Chúng ta đã phải chịu tính phi tôn giáo từ khi sinh và chúng
ta chết đi trong phi tôn giáo. Và ở giữa, từ sáng tới đêm, từ sinh tới tử, qua
toàn bộ cuộc sống của các kiếp sống mình, chúng ta nói và nói và nói mãi về tôn
giáo. Trong con người tối cao sẽ không có bất kì huyên thuyên riêng nào hay
thảo luận trống rỗng về tôn giáo, bởi vì tôn giáo sẽ là cách sống của người đó.
Chúng ta nói về những điều không phải là một phần cuộc sống của mình, và không
nói về những điều đang có đấy. Chúng ta không nói về dục bởi vì đấy là cách
chứng ta sống, nhưng chúng ta giữ việc nói về Thượng đế bởi vì cách chúng ta
sống chẳng liên quan gì tới Thượng đế ở bất kì cái gì. Trong thực tế, chứng ta
giữ mình được thoả mãn bằng việc nói về mọi thứ mà chứng ta chẳng bao giờ có
thể đạt tới hay thu được.
Chẳng lẽ bạn chưa bao giờ
để ý rằng đàn bà nói nhiều hơn đàn ông sao? Đàn bà bao giờ cũng bận rộn nói về
cái gì đó hay cái khác - với hàng xóm, với bất kì ai chịu nghe, cố ý không làm
mất lòng, nhưng người ta nói rằng rất khó hình dung ra nổi hai phụ nữ ngồi cùng
nhau một lúc mà lại không nói gì với nhau.
Tôi đã nghe rằng một cuộc
tranh cãi lớn đã được tổ chức ở Trung quốc để chọn ra người nói dối lớn nhất
nước. Người thắng sẽ được giải thưởng lớn, và do vậy tất cả những kẻ nói dối
giỏi nhất đều tụ tập tại vị trí đã chọn cho cuộc tranh cãi.
Khi đến lượt mình, một
người nói, «Tôi đi ra công viên và tôi
thấy hai phụ nữ ngồi trên chiếc ghế dài và giữ yên lặng».
Có tiếng ồn ào lớn. Mọi
người đều khoái trá. Mọi người hô lên, «Không
thể nào có chuyện bịa lớn hơn thế này! Đây là người nói dối lớn nhất!»
Mọi người đều bầu cho người
này.
Tại sao phụ nữ nói nhiều
như họ vẫn thế? Đàn ông có việc của mình, nhưng đàn bà không có nhiều việc để
làm. Chỗ không có nhiều việc để làm, không nhiều hoạt động, thì bao giờ cũng có
huyên thuyên vu vơ. Nét nữ tính này là tính cách quốc gia của Ân Độ. Không có
tiến bộ trong quốc gia này; chỉ có nói chuyện và thảo luận.
Con người mới, con người
được sinh ra từ brahmacharya, sẽ không nói nhiều - người đó sẽ sống cuộc sống.
Người đó sẽ không chỉ nói và nói về tôn giáo, người đó sẽ sống trong tôn giáo.
Mọi người sẽ quên về tôn giáo như chủ điểm cho thảo luận vu vơ, bởi vì tôn giáo
sẽ là chính bản chất của họ. Nghĩ về con người đó, hình dung về con người đó là
điều tuyệt diệu; đó là điều gây kính phục.
Những người như vậy đã được
sinh ra, nhưng việc sinh của họ còn hiếm hoi. Đôi khi, rất hãn hữu, một người
đẹp như vậy mới được sinh ra mà thậm chí quần áo đắt nhất cũng không thể làm
đẹp được người đó, và người đó đứng dậy không mặc quần áo, trần truồng, và toả
sáng của cái đẹp của người ấy lan toả đi xa và rộng. Mọi người xúm lại quanh
người đó - để thấy người đó, để kì thú vào một thiên thần sống. Một người như
vậy có vinh quang thế, có sinh khí thế mà mặc dầu tên người đó là Vardhamana
thì mọi người vẫn cứ gọi ông ấy là Mahavira - thắng lợi vĩ đại. Niềm vinh quang
của brahmacharya trong ông ấy lên đến mức mọi người phủ phục minh trước ông ấy,
trước con người Thượng đế này. Đôi khi một Phật được sinh ra, đôi khi một
Christ được sinh ra, đôi khi một Lão Tử được sinh ra. Chúng ta có thể công khai
đếm vài cái tên như thế trong toàn bộ lịch sử loài người.
Ngày con cái được sinh ra
từ vô dục, từ giao cảm thiêng liêng - bạn có lẽ không thích âm thanh của câu «con cái theo vô dục» mà tôi đang nói về
một khái niệm mới, về một khả năng cao quí hơn - ngày con cái nở hoa từ vô dục,
nhân loại sẽ đẹp đẽ, mạnh mẽ, chu đáo, nhiệt tình và thông minh tới mức tri
thức về cái ta, về cái Trên quá ta, về Tâm thức Vũ trụ, sẽ không còn rất xa với
bất ki ai. Mặc dầu điều này là khó hình dung, để tôi minh hoạ bằng một thí dụ.
Neu tôi bảo một người đang
phải chịu chứng mất ngủ rằng anh ta sẽ có khả năng ngủ được ngay lúc anh ta đặt
đầu lên gối, anh ta sẽ rất có thể không tin tôi. Anh ta sẽ bảo tôi anh ta bao
giờ cũng trăn trở trên giường, ngồi dậy, đứng dậy để lần tràng hạt, hay đếm số,
nhưng anh ta không thể ngủ được. Anh ta sẽ nói rằng tôi là kẻ nói dối. Anh ta
sẽ hỏi làm sao có thể ngủ ngay lập tức được, chỉ bởi việc nằm xuống. Anh ta sẽ
phàn nàn điều đó, mặc cho tất cả mọi loại thực nghiệm, anh ta không thể ngủ
ngon, đôi khi không ngủ chút nào trong cả đêm.
Ba mươi đến bốn mươi phần
trăn cư dân của thành phố
Cho nên, trong thời gian
năm trăm năm, hoàn toàn có thể là mọi người trên thế giới sẽ uống thuốc ngủ
trước khi đi nghỉ. Và ngay lập tức sau khi người đó được sinh ra, con trẻ sẽ
muốn một liều an thần thay vì sữa, bởi vì nó thậm chí sẽ không an bình từ ngay
trong bụng mẹ! Thế thi sẽ rất khó để thuyết phục mọi người rằng, năm trăm năm
trước đây, mọi người đơn giản quen nhắm mắt lại và đi ngủ không có thuốc an
thần nào cả. Họ sẽ nói điều đó là không thể có được; họ sẽ hỏi làm sao điều đó
có thể làm được.
Tương tự, sẽ rất khó thuyết
phục những người đã được sinh ra từ vô dục rằng mọi người đã có thời không
trung thực, rằng đã có thời có kẻ cắp và kẻ giết người, rằng con người đã có
thời tự tử, rằng họ đã đầu độc và đâm chém lẫn nhau, rằng họ đã tiến hành chiến
tranh. Họ cũng sẽ không tin rằng những người đã có thời được sinh ra từ dâm dục
thông thường mà không có lấy mảy may sâu sắc hơn tiếp xúc vật lí.
Dục tâm linh có thể tiến
hoá. Cuộc sống mới có thể bắt đầu cho loài người.
Trong bốn ngày cuối này,
tôi đã nói cho các bạn về khả năng của việc đạt tới mức độ mới về sự tồn tại
tâm linh. Các bạn đã lắng nghe bài nói của tôi một cách kiên nhẫn và với nhiều
tình yêu, mặc dầu để nghe những bài nói này một cách an bình phải là điều rất
khó với các bạn; các bạn phải đã cảm thấy ngượng ngùng nhiều lúc.
Một người bạn tới tôi và
bầy tỏ nỗi sợ của anh ấy rằng vài người, cảm thấy rằng một chủ đề như vậy không
nên được nói tới, có thể đứng dậy và kêu lên một tiếng để dừng bài nói lại. Anh
ấy cảm thấy vài người có thể phản đối mạnh mẽ và to mồm việc thảo luận về chủ
điểm như vậy trong công chúng. Tôi đã bảo anh ta thế giới sẽ tốt hơn nếu có
những người bạo dạn như vậy xung quanh. Bạn sẽ tìm đâu ra một người dũng cảm
đến mức người đó sẽ đứng dậy trước công chúng đang tụ tập và đòi diễn giả hãy
dừng bài nói của mình? Nếu người dũng cảm như vậy tồn tại trong đất nước này,
thế thì những bài nói lém lỉnh và vô nghĩa vẫn được phát biểu từ các bục diễn
thuyết cao của đất nước này bởi cả loạt người ngu đã phải chấm dứt từ lâu rồi.
Nhưng họ vẫn chưa dừng và họ sẽ chẳng bao giờ dừng cả. Ngay từ đầu, tôi đã chờ
đợi vài người bạo dạn đứng dậy và yêu cầu tôi chấm dứt bài nói. Thế thì tôi có
thể thảo luận về chủ đề này với anh ta thật chi tiết. Điều đó sẽ là nguồn giải
trí lớn cho tôi.
Và như vậy, với những bài
nói như vậy, về chủ đề như vậy - mặc cho sự kiện là nhiều bạn bè lo sợ ai đó có
thể đứng dậy để phản đối, mặc cho sự kiện là ai đó có thể tạo ra huyên náo ầm ĩ
ở đây - các bạn đã yên lặng lắng nghe. Tất cả các bạn đều rất tốt. Tôi biết ơn
về kiên nhẫn và chăm chú an bình của các bạn.
Để kết luận, từ trung tâm
trái tim tôi, tôi ham muốn rằng thèm khát dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở
thành chiếc thang qua đó đạt tới ngôi đền của tình yêu, rằng dục bên trong mỗi
chúng ta có thể trở thành phương tiện để đạt tới siêu tâm thức.
Và cuối cùng, tôi cúi mình
trước điều Tối cao được tôn lên trong tất cả chúng ta.
Xin chấp nhận sự kính trọng của tôi.
Comments
Post a Comment