nbacd-01 - Một triển vọng đáng mừng
Chương 1
Một
triển vọng đáng mừng
Một nhà hiền triết đã mô tả về ý nghĩa của một đời người chỉ trong một
câu ngắn gọn: «Con người sinh ra chỉ để
đau khổ và cuối cùng chết đi.»
Nói về sự đau khổ của cuộc đời, ngày nay hẳn không còn ai phải hoài nghi
hay tranh cãi. Người ta thường chỉ không đồng ý với nhau trong việc nhận định
về những đau khổ đó và nên đối phó với chúng như thế nào mà thôi.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, người đầu tiên đã nhận thức và mô tả hết sức cụ
thể về những đau khổ của đời người là một người Ấn Độ. Ngài đã chỉ rõ mọi
nguyên nhân cội nguồn của đau khổ và vạch ra con đường thoát khổ, được hàng
triệu triệu người trên khắp thế giới noi theo từ đó đến nay và mỗi người đều
đạt được những sự lợi ích tinh thần nhất định, từ những phút giây thanh thản
trong đời sống thường nhật cho đến những trạng thái giải thoát toàn diện thoát
khỏi mọi khổ đau.
Lịch sử ghi nhận sự kiện đản sinh của bậc vĩ nhân đó với tên gọi Thái Tử
Sĩ Đạt Ta, và về sau được tôn xưng là Đức Phật, với ý nghĩa là bậc Toàn Giác.
Phụ vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ
thời đó. Người quyết định truyền ngôi cho thái tử nên đã giữ chặt thái tử trong
cung, không cho thái tử nhìn thấy những cảnh lầm than, đau khổ của người đời.
Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm. Đến lúc trưởng thành, vua cha cưới
cho thái tử một vị công chúa nhan sắc tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, thái tử chưa
hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc quanh hoàng cung. Khi thái tử có
được một hoàng nam, người thấy nhàm chán cảnh cung điện và muốn biết có những
gì ở cuộc sống bên ngoài cung điện. Người mới xin phép vua cha xuất thành du
ngoạn. Lần đầu tiên thái tử được nhìn thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông
đảo và đời sống thực tế bên ngoài cung điện.
Sau khi du ngoạn bên ngoài bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy những cảnh
tượng làm cho người chú ý. Đó là cảnh một người già, một người bệnh tật và một
xác chết. Thái tử lần đầu tiên thấy được những cảnh này, vô cùng xúc động, bèn
hỏi tên đánh xe đi theo ngài: «Tại sao
lại có những cảnh đau khổ như thế?»
Khi được biết rằng đó là những điều vẫn xảy ra với tất cả mọi người,
không ai tránh khỏi, Thái tử vô cùng buồn bực, đến nỗi Ngài không còn ham thích
gì cuộc sống xa hoa.
Khi trở về cung, ngài bắt đầu nuôi ý định xuất ly, từ bỏ tất cả mọi sản
nghiệp, gia đình vợ con để xuất gia tầm đạo, tìm một phương cách để cứu vớt
nhân loại và chúng sinh thoát khỏi sự lầm than đau khổ.
Ý nguyện của ngài không được sự chuẩn thuận của vua cha. Vì thế, ngài đã
phải đang đêm vượt thành để ra đi tầm đạo. Sau nhiều năm khổ công tìm kiếm và
tu tập, tham thiền quán tưởng, ngài đạt được trạng thái giác ngộ, trở thành một
bậc toàn trí toàn giác, xứng đáng với danh hiệu Phật-đà, nghĩa là Bậc tỉnh
giác. Sau đó ngài mới truyền dạy đạo giải thoát cho thế gian, chỉ cho tất cả
mọi người thấy được con đường thoát khổ.
Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không ai có thể làm giống
như đức Phật Thích Ca, nghĩa là nhất thời dứt bỏ tất cả sự giàu sang, quyền
thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích quá
cao xa như việc đi tìm chân lý và tìm hiểu ý nghĩa chân thật nhất của cuộc đời!
Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều phải trải qua những hình thức khổ đau
nhất định trong cuộc đời mình và hẳn đã có lúc phải tự hỏi:
- Tại sao con người phải chịu đau khổ? Và ta có thể làm gì để thoát khổ?
Cách giải thích về những «tội lỗi
bẩm sinh» mà con người phải nhận lấy ngay từ lúc sinh ra dường như không
thuyết phục đối với nhiều người. Họ thấy không có lý do gì để người ta phải
chịu đựng khổ đau chỉ vì những điều mà họ hoàn toàn không tự mình thực hiện!
Nhưng nếu cho rằng có những điều chính ta đã thực hiện trong quá khứ để dẫn đến
sự khổ hiện nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ vì si mê thì nhiều người
cũng không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự chứng minh cụ thể nào cả!
Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa về một thời kỳ trong tương
lai mà bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra sẽ có hai điều không còn nữa, đó là bệnh
tật và già yếu. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có rất nhiều những phát minh
đột phá, người ta vẫn chưa bao giờ chạm tới ngưỡng cửa của sự chấm dứt hoàn
toàn bệnh tật hoặc làm cho con người không còn chịu tiến trình lão hóa. Cứ mỗi
khi tìm được phương pháp điều trị cho một căn bệnh nan y nào đó, thì dường như
là ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh
trước đó! Và như thế lúc nào con người cũng phải luôn đứng trước những thách
thức không thể vượt qua của bệnh tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng
không thấy có triển vọng gì tốt đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng
tìm ra một phương thuốc nào đó làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm
mười năm tuổi cũng đã là phi thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc «cải lão hoàn đồng»!
Nhưng cho dù có vượt qua được sự bệnh tật và già yếu, con người hầu như
cũng không thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn xem là kẻ
thù lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới giữa sống và chết bao giờ cũng hết sức
mong manh, và con người chưa hiểu biết được bao nhiêu về vấn đề này nên có thể
nói là hoàn toàn bất lực trong việc tác động vào nó. Cho dù người ta có thể làm
ra những cỗ máy khổng lồ đủ sức san bằng cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không
thấy có chút hy vọng gì có thể làm cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể
sống lại dù chỉ trong chốc lát!
Trong khi chờ đợi một cách vô vọng những tiến bộ của con người theo
hướng này, và trong khi sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn
còn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, sự anh ổn và hạnh phúc, thì chúng ta
vẫn luôn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh trong đời sống, những mối
nguy cơ, tai họa và đau khổ luôn rập rình đe dọa sự hạnh phúc và bình an trong
tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh,
động đất... kèm theo với những cuộc chiến tranh do chính con người gây ra luôn
sẵn sàng cướp đi đời sống an ổn của bất cứ ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể
qua một vài sự tác động xấu từ bên ngoài, còn nói về những yếu tố bên trong,
tức là phần nội tâm, thì con người lại luôn sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất
toàn, như lòng ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê .v..v... đều là
những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho chính bản thân mỗi người và cho những
người chung quanh.
Trong những giây phút vui tươi ít ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy
trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương, hay khi nhìn thấy
cảnh sắc muôn màu của lúc bình minh, chúng ta thường cảm thấy rằng trong vũ trụ
tự nhiên hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn giấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm nào
đó, khác hơn là những nỗi khổ đau mà ta phải thường xuyên gánh chịu. Tuy nhiên,
khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những
thất vọng não nề cay đắng, thì chúng ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là:
- Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời này là gì?
- Ta là ai?
- Tại sao ta sinh ra ở đây?
- Rồi ta sẽ đi về đâu?
- Tại sao ta phải chịu đau khổ?
- Có những mối quan hệ gì giữa ta và những người khác
quanh ta?
- Giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí
trong cõi thiên nhiên bao phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ như thế nào
chăng?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá
khứ xa xăm. Nhưng ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất
cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sự đau khổ, dầu là những phương tiện
vật chất hay tinh thần, đều chỉ có ý nghĩa vô cùng hạn chế và không thể giúp
cho ta có được hạnh phúc thực sự. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại về
cơ bản vẫn chưa được giải quyết, thì có thể nói là những nỗ lực của con vẫn
chưa giải quyết được gì cả, vì tất cả mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét
cho cùng cũng không có ý nghĩa gì khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh
nặng khổ đau. Ngày nào mà trên thế gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường
nhất đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân,
thì xem như người ta chưa thực sự giải thích được điều gì cả, và quan niệm
triết lý của nhân loại về cuộc đời vẫn còn là thiếu sót, bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi
trên. Và càng suy ngẫm thì họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả và
đau khổ của con người không hẳn là vô ích và vô nghĩa như người ta có thể lầm
tưởng. Bởi vì, trong khi những ý nghĩa vật chất nhìn thấy được là hoàn toàn
không có giá trị chân thật, thì sự đào luyện và tiến hóa về tinh thần nhờ trải
qua những kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn là một điều có thật. Từ đó, người ta cảm
thấy nhất định phải một sự liên quan giữa con người với thế giới tâm linh hay
phần tinh thần phi vật thể. Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người
ta bắt đầu tin vào sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những
khu rừng thẳm hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng
vẻ... Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài cầm
thú, đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những đau khổ cùng
với thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một hình thức phi vật chất
và tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù những niềm tin như thế hầu hết
đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự xuất phát từ những cảm nhận rất thật của
con người trong suốt quá trình chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin
này hầu như đã đồng thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự
khác biệt về chủng tộc, địa lý...
Khi sự suy nghiệm của con người về vấn đề này đã trải qua được những
quãng thời gian rất dài thì những lý thuyết khác nhau dần dần được phát sinh.
Hoặc có người cho rằng ngoài cõi trần gian đau khổ này mà loài người đang sống
trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, hẳn phải
còn có một cảnh giới vô hình nào đó để là nơi thưởng phạt công minh đối với
những hành động thiện ác của con người ở thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó
mà người ta đã tin rằng có những cảnh thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự
tưởng tượng, hình dung khác nhau ở từng nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm
cân nảy mực khác nhau, hoặc miêu tả những cảnh thiên đàng và địa ngục khác
nhau, nhưng tựu trung vẫn giống nhau ở điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công
bằng tuyệt đối của sự phán xét vô hình đó.
Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra rất
nhiều. Có những cách giải thích hãy còn giản dị thô sơ, chất phác, nhưng cũng
có những cách giải thích tinh tế, sâu sắc hơn, và cũng có những cách giải thích
được mọi người cho là hợp lý, thuyết phục. Và chính nhờ sự tin tưởng vào những
giải thích được chấp nhận đó mà con người vẫn có thể tiếp tục sống và đương đầu
với những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc đời, vì sự thật là nếu không có những
niềm tin đó thì cho dù con người có can đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua
được những cơn khủng hoảng. Có người tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin
tưởng ở Đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn
giáo nào khác nữa...
Có nhiều người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy
nhất, đó là ý nghĩa của sự sống. Một số người khác không cần bận tâm tìm biết
lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng, khoái lạc trong hiện tại. Đối với
những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải
thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời thường là như thế này:
- Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một
thử thách đưa đến cho chúng ta, thiên đàng hay địa ngục là những điều thưởng
phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.
Những người chấp nhận sự giải thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng
chứng; vì đó chỉ là sự giải thích mà họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các giáo
sĩ; và chính những vị này cũng đã hấp thụ từ những bậc phụ huynh và các giáo sĩ
trong thế hệ của họ, rồi cứ như thế đi ngược dòng thời gian cho đến khi người
ta tìm thấy nguyên ủy mọi sự nằm trong một quyển sách gọi là Kinh Thánh
(Bible), và một người đã thiết lập, củng cố niềm tin ấy tên là Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức
Jesus, cho dù là một con người hay thực sự là con của Chúa Trời, vẫn phải xem
là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ Phục Hưng (Renaissance)
cho đến nay, người Tây phương ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín
điều dựa trên niềm tin không được xác tín, dẫu cho đó là tin vào một quyển sách
hay một con người. Bất cứ tín điều nào không thể chứng minh được bằng các
phương tiện khoa học đều gây ra một sự hoài nghi mỗi lúc một tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolemy (Ptolémée) [1] nói rằng mặt trời xoay quanh
trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy
nhiên, nhà Thiên văn Copernic [2] đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để
chứng minh điều ngược lại, rằng chính trái đất xoay chung quanh mặt trời!
[1] Ông tên thật là Claudius Ptolemaeus, sống vào khoảng thế kỷ 2 ở
Alexandria, Ai Cập. Ông là nhà thiên văn học đầu tiên đề xướng lý thuyết về vũ
trụ lấy trái đất làm trung tâm điểm và mặt trời, mặt trăng cũng như các tinh tú
đều quay chung quanh trái đất. Lý thuyết sai lầm này tồn tại mãi đến thế kỷ 16.
[2] Tức Nicolaus Copernicus (1473-1543), nhà thiên văn học nổi tiếng
người Ba Lan, đã đề ra lý thuyết về vũ trụ lấy mặt trời làm trung tâm điểm.
Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng lúc hai vật có
trọng lượng khác nhau từ trên cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước, và Hội
Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của
Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành
phố Pise, Galileo [3] đã chứng minh rằng hai vật có trọng lượng khác nhau vẫn
có thể rơi xuống đất cùng lúc nếu chúng có thể tích khác biệt tương ứng.
[3] Galileo (1564-1642), nhà vật lý và thiên văn học Ý, đã chứng minh
rằng quan điểm của Aristote về vật rơi tự do là sai lầm. Ông cũng là người bị
Giáo hội La Mã buộc tội vì ủng hộ quan điểm của Copernicus, vốn đi ngược lại sự
truyền dạy của Giáo hội.
Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng
rộng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm khác nữa
của thế kỷ XV đã làm đảo ngược giả thuyết trên đây bằng những chuyến du hành
trên mặt biển, khởi hành từ một điểm và đi thẳng theo hướng đông nhưng cuối
cùng lại đến được điểm khởi đầu, chứng tỏ rằng họ đã đi theo một đường tròn.
Những sự chứng minh trên đây cùng nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần
chứng tỏ rằng những giả thuyết dựa trên niềm tin vô căn cứ từ thời xưa không
chắc gì là đúng. Do đó đã nảy sinh quan niệm khoa học và óc hoài nghi phán đoán
của người thời nay.
Tuy nhiên, có một thực tế là trong sự tranh đấu để sống còn con người
không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không tìm
ra lý do nào để giải thích ngoài việc phải thừa nhận là nó không có mục đích gì
cả! Lẽ nào người ta lại không thể có một cuộc sống không phải chịu đau khổ? Và
những gì ta biết về sự chết cho đến nay vẫn chỉ là «một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất», ngoài ra ta
không còn biết gì hơn nữa.
Như vậy, với khuynh hướng khoa học, người ta đã thay thế niềm tin vào
Kinh Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm tin vào năm giác quan và các thiết bị
khoa học!
Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và
những phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của năm giác
quan đến mức vượt xa trước đây, nhưng người ta vẫn dựa vào sự nhận xét bằng năm
giác quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác như là nền
tảng của mọi lý luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm gần đây, người ta đã trở nên phức tạp
hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã
hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta phát minh ra đã chỉ cho họ thấy
một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật vô cùng thiếu sót, bất
toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật sự đầy đủ, chính
xác. Những luồng sóng Hertz, [4] chất phóng quang, nguyên tử lực... đó là chỉ
mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một
cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những
mãnh lực vô hình; và những phân tử nhỏ bé nhất của vật chất đều là những kho
chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người
trước đây không thể tưởng tượng nổi.
[4] Hertz: đơn vị đo tần số được gọi theo tên của nhà vật lý người Đức
Heinrich Rudolf Hertz, có nghĩa là chu kỳ trong một giây đồng hồ. Một kilohertz
(kHz) có nghĩa là một ngàn chu kỳ trong một giây, megaherzt (MHz) là một triệu
chu kỳ trong một giây và gigaherzt (GHz) là một tỷ chu kỳ trong một giây.
Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... mà chúng ta dùng để
tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé nhỏ là
xác thân của chúng ta. Sự nhạy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp
chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh
sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp ta tiếp nhận một biên
độ vô cùng nhỏ hẹp trong biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm,
chim muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác
hẳn loài người; bởi đó vũ trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu
không nhận biết hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người
vốn tự hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số
loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về vũ trụ
bên ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương tiện khoa học
mà chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh, nên con người không
thể tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong vũ trụ mênh mông rộng lớn.
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết
của giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ
hơn mức bình thường một phần nào thôi. Phải chăng khi ấy ta sẽ nhận biết được
nhiều sự vật mà trước kia ta không hề nghe, không hề thấy?
Hoặc nếu có một người nào đó bẩm sinh đã có được những giác quan phi
thường, với một tầm nhận biết rộng lớn hơn, phải chăng điều tất nhiên là người
này sẽ có thể nghe thấy, nhận biết những sự vật mà chúng ta không thấy, không
nghe? Với một mức độ khác biệt nào đó, phải chăng người ấy có thể nghe, thấy và
nhận biết vượt qua cả những khoảng không gian xa xôi, tương tự như máy vô tuyến
truyền thanh hoặc truyền hình?
Đứng trước thế giới mênh mông vô tận với biết bao điều còn bí ẩn mà
những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai mươi đã hé mở cho chúng ta nhận
biết phần nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận khả năng xảy ra những điều nói
trên. Và nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người, chúng ta sẽ thấy đã từng có
nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận biết phi thường
của một số người. Một trong số những người đó là ông Swedenborg, [5] nhà bác
học trứ danh của thế kỷ 18. Ông này có được một năng lực nhận biết rất phi
thường. Người ta đều biết rõ một chuyện về năng lực phi thường của ông, vì
chuyện này được rất nhiều người chứng kiến, trong số đó có cả nhà triết học
Emmanuel Kant.
[5] Emanuel Swedenborg (1688-1772), nhà khoa học người Thụy Điển, cũng
là triết gia và một nhà thần học.
Một buổi chiều vào khoảng sáu giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với
vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói rằng một
cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ năm trăm cây
số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một
người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến tám giờ, cũng
chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã
được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác.
Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những
bài tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc phát đúng vào lúc ông giật mình và có cảm
giác đầu tiên về cơn tai biến này!
Đây không phải là trường hợp duy nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên
tuổi cũng ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có những người
nổi tiếng như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens.v.v... Trong vài trường
hợp, chính những người thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình những
hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong
nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó
trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Nhưng trong phần
nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó dường như chỉ biểu lộ trong một lúc
nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên
với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy
nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn vào những hiện tượng đó một
cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở,
sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các
trào lưu khoa học và những nhu cầu của thế hệ, thì bất cứ sự việc gì có liên hệ
đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lý thú và có
một tầm quan trọng nhất định.
Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận
rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên đáng được nghiên cứu bằng phương pháp
khoa học, cũng như đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B.
Rhine, [6] giáo sư trường Đại Học Duke. Từ năm 1930, tiến sĩ
[6] Joseph Banks Rhine (1895-1980), nhà tâm lý học người Mỹ, sinh tại
Waterloo, thuộc bang Pennsylvania, tốt nghiệp các trường Đại học Chicago,
Harvard và Duke. Ông là giáo sư dạy môn tâm lý học ở trường Đại học Duke từ năm
1928 đến năm 1950.
Bằng những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một
phương pháp khoa học đặc biệt, tiến sĩ
Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở
Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận
giống như của tiến sĩ J. B. Rhine.
Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về
tính chất có thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần
nhãn của con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh được rằng
hiện tượng thần nhãn là một điều có thật, còn việc nó hoạt động ra sao và phát
sinh từ những yếu tố nào thì người ta hoàn toàn không biết gì cả. Vì thế, người
ta vẫn chưa thể vận dụng được năng khiếu đó trên địa hạt thực tế.
Thử tưởng tượng, nếu con người có thể tạo ra được cái năng khiếu phi
thường đó, thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được những gì xảy ra trong không gian mà
không cần sử dụng đến cặp mắt thường. Khi đó, con người sẽ có được một phương
thức mới cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những điều hiểu biết về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao.
Sự khôn ngoan khéo léo đã giúp ta chinh phục một phần nào không gian và tác
động rất nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng dù có được sự khôn ngoan khéo léo
đó, xét cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu
có được những thành công nhất định trên địa hạt vật chất, con người vẫn còn
phải bất lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dầu đã thu hoạch được những kết quả
nhất định trên các lãnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, con người vẫn chưa
tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà mỗi người đều phải chịu đựng từ
khi sinh ra cho đến lúc từ giã cõi đời.
Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật về năng lượng
nguyên tử, điều đó là một bước đột phá trong việc kiểm soát thế giới vật chất.
Nhưng có lẽ phải nhờ vào chính những sự khám phá gần đây về khả năng cảm xúc
bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức
và tiềm thức, con người mới có thể tiến sâu hơn nữa vào lãnh vực nội tâm của
chính mình.
Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những
câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn quan trọng của đời người, chẳng hạn
như những lý do vì sao con người sinh ra ở thế gian và mục đích cùng ý nghĩa
của sự đau khổ mà con người phải chịu đựng là gì.
Comments
Post a Comment