nbacd-23 - Những Khía Cạnh của Luật Nhân Quả
Chương 23
Những
Khía Cạnh
của Luật Nhân Quả
Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù do kiếp
trước khi sống trong một bộ lạc ở Ba Tư đã lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào
mắt những tù binh để hành tội.
Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: «Tại sao người này phải chịu trách nhiệm về một việc làm tuân theo những
tục lệ địa phương thời đó? Xét cho cùng, ông ta không thể làm khác hơn những gì
xã hội đương thời đòi hỏi, vậy tại sao ông phải chịu quả báo trong khi ông chỉ
thừa hành một công việc mà xã hội bắt buộc ông phải làm?»
Chẳng hạn như vào thời nước Pháp còn dùng những quân đao phủ để thi hành
các bản án tử hình. Người đao phủ ấy chỉ là một nhân viên thừa hành và không
thể làm gì khác hơn được. Có thể nào người ấy phải chịu quả báo khi thực hiện
một công việc do luật pháp đã phán định hay chăng? Nhưng nếu là không, thì tại
sao người của bộ lạc nước Ba Tư thời cổ khi lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù
binh lại phải chịu quả báo?
Trước đây chúng ta đã thấy rằng không chỉ riêng hành động gây nên nghiệp
quả, mà chính những tư tưởng làm động lực thúc đẩy trong lòng người, làm cơ sở
biểu lộ ra hành động ấy mới là yếu tố quan trọng hơn trong việc tạo nên nghiệp
quả.
Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay cộng nghiệp. Nếu mọi
người trong một xã hội cùng tán thành và thực hiện những tập quán xấu xa, độc
ác, gây đau khổ cho nhiều người, thì tất cả những người thuộc về cộng đồng xã
hội đó đều phải chia sẻ trách nhiệm và nhận lãnh quả báo xấu.
Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như
sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác là những điều xấu ác, thì tất
cả những thành viên của xã hội tàn bạo đó đều có thể xem là phạm tội, nếu không
trực tiếp thì cũng là gián tiếp.
Tội ác đó sẽ càng tăng thêm nếu một người biết rằng những tập tục đó là
độc ác mà vẫn tán thành và không làm gì để trừ bỏ đi. Và nếu họ trực tiếp nhúng
tay vào những hành động hung dữ ấy thì tội ác sẽ càng tăng hơn thêm.
Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt người khác chỉ vì họ là tù binh của một
bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người hành hình
đó tự trong lòng mình có sự chống đối, không tán thành việc làm hung bạo này,
và chỉ thực hiện công việc vì bị bắt buộc thì có lẽ nghiệp ác tạo ra sẽ được
giảm nhẹ. Nhưng nếu trong khi thực hiện công việc ấy mà tự trong lòng ông tán
thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác
tương đương với tập tục xấu ác đó, thì chắc chắn là quả báo sẽ phải nặng nề
hơn.
Nếu người nhạc sĩ nói trên trước đây chỉ thực hiện công việc với một
tinh thần trong sạch, hoàn toàn không vì thỏa mãn dục vọng riêng tư, không có
lòng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, thì ác nghiệp tạo ra sẽ được giảm nhẹ.
Cũng theo lập luận đó nên khi thấy rằng người ấy đã chịu quả báo mù lòa
trong kiếp này thì ta có thể kết luận ngay rằng ông ta trước đây đã nuôi lòng
hung ác trong khi thực hiện công việc hành tội người khác.
Trong chương 11, chúng ta đã thấy rằng một nhận thức không toàn diện về
luật nhân quả có thể làm cho người ta phải băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn
đề xã hội và không biết phải hành động như thế nào cho hợp lẽ.
Chẳng hạn, chúng ta đã thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng
quyền năng trong những kiếp quá khứ đã đưa đến cảnh nghèo khổ khốn khó trong
kiếp hiện tại. Và nếu những sự khốn khổ của con người đều do những việc làm xấu
ác của họ gây nên trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn
nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau
khổ của kẻ khác? Ta có nên ngoảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng:
- Này ông bạn, ông bạn đau khổ vì quả báo do ông bạn tự gây ra chứ không
phải oan uổng gì đâu. Tôi không thể giúp gì cho ông bạn, vì tôi không muốn can
thiệp vào luật nhân quả.
Và ta có nên nghĩ rằng thiện cảm dành cho những «tội nhân» ấy là một thái độ sai lầm, và lòng nhân từ đối với họ là
một điều đặt không đúng chỗ trước những tác động hoàn toàn khách quan của luật
nhân quả hay chăng?
Như đã nói, sự thật thì những thắc mắc như trên đều là xuất phát từ một
nhận thức không toàn diện về luật nhân quả. Nhưng có lẽ ta cũng không nên giải
đáp những câu hỏi này một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự chủ quan bồng
bột.
Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không thể không chịu
hình phạt xứng đáng. Nếu vì lòng nhân hậu mà người ta để cho kẻ ấy được tự do
sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi, thì rất có thể một tội ác tiếp theo đó sẽ
xảy ra. Chúng ta cũng biết rằng, một người học trò kém cỏi không thể cố gắng
học hết chương trình nếu vị thầy dạy quá dễ dãi và không xử phạt nghiêm khắc
những lần trốn học. Chúng ta cũng biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời
nếu người mẹ luôn bênh vực không để nó phải chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của
người cha.
Tuy thế, sự thờ ơ trước những khổ đau của những người khác không bao giờ
có thể xem là một việc nên làm. Do tính chất phức hợp của luật nhân quả nên bản
thân việc này cũng là một nhân xấu sẽ mang lại quả xấu cho ta trong tương lai.
Trong thực tế, vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng thấy có những người luôn cố
gắng hoạt động trong các công trình cứu tế từ thiện để làm dịu bớt sự đau khổ
của nhân loại. Những người này thường không có sự suy tính hơn thiệt, mà họ
hành động vì sự thúc đẩy của lòng nhân ái. Chúng ta không thể phán xét rằng
những người này đang chống lại luật nhân quả khi họ nỗ lực giúp đỡ những người
chịu quả báo xấu. Một phán xét như vậy là phiến diện và sai lầm, xuất phát từ
sự không hiểu biết đầy đủ về luật nhân quả.
Trở lại với những thí dụ minh họa mà ta vừa nêu ra ở trên. Vị quan tòa
phán xử nghiêm khắc một tội nhân không phải do lòng ác độc, mà vì luật pháp của
một xã hội đã được soạn thảo theo cách cố gắng bảo vệ tất cả mọi người trong xã
hội đó một cách công bằng. Vì thế, vị quan tòa có bổn phận phải tuân theo luật
pháp. Và khi ông làm đúng như vậy thì điều đó không thể xem là thiếu lòng nhân
ái. Trong thực tế, tất cả những vị quan tòa cương trực, nghiêm khắc thật ra đều
là những người tốt, biết gạt bỏ mọi sự tư lợi để luôn hành động theo lẽ phải,
vì lợi ích của tất cả mọi người.
Tương tự như thế, một thầy giáo nghiêm khắc không phải là người thiếu
tình thương đối với học trò, mà thật ra chính vì yêu thương và mong muốn cho
người học trò của mình thành đạt nên ông mới hết lòng quan tâm đến việc học của
anh ta cũng như thực hiện mọi biện pháp kỷ luật cần thiết để răn dạy. Một người
học trò khi thực sự thành đạt chỉ có thể hết lòng biết ơn về sự dạy dỗ nghiêm
khắc của thầy chứ không thể xem đó là những biểu hiện của sự thiếu tình yêu
thương.
Cũng vậy, một người cha có thể tỏ ra nghiêm khắc với con cái khi cần
thiết, bởi trong lòng ông luôn muốn dành cho con mình một sự giáo dục tốt nhất,
chứ không phải vì ông không thương con bằng người mẹ.
So sánh với cả ba trường hợp kể trên thì sự thương yêu giúp đỡ những
người khốn khổ trong xã hội hoàn toàn không giống với việc cản trở quan tòa thi
hành pháp luật hay ngăn cản người thầy, người cha trong việc dạy dỗ... Bởi vì
sự giúp đỡ và an ủi một người khi họ đang rơi vào hoàn cảnh khốn khổ là xuất
phát từ tấm lòng chân thật và hướng thiện của ta, còn quả báo mà người ấy đang
nhận lãnh là xuất phát từ những tư tưởng và hành vi không tốt của họ trong quá
khứ. Hai điều này có thể tương tác với nhau nhưng không hề cản trở, mâu thuẫn
nhau. Ta có thể giúp giảm nhẹ nỗi đau khổ của một người nhưng không thể ngăn
cản quả báo xấu đến với họ, cho dù ta có muốn làm như thế. Nhưng sự giúp đỡ an
ủi của ta có thể cảm hóa phần nào những tính xấu có thể đang còn tồn tại nơi
người ấy, và điều đó sẽ có tác dụng rất tích cực trong việc giúp giảm nhẹ quả
báo mà họ đang hứng chịu.
Mặt khác, khi ta biết thương yêu giúp đỡ người khác là ta đang xây dựng
tương lai tốt đẹp cho chính mình. Và nếu tất cả mọi người đều biết thương yêu
giúp đỡ lẫn nhau thì một cộng đồng xã hội như vậy chắc chắn sẽ là một môi
trường tốt đẹp và lý tưởng cho tất cả mọi người. Vì thế, ta không thể vì những
lỗi lầm trong quá khứ của một người mà quay lưng với người ấy, khiến cho bản
thân mình lại trở thành một kẻ lãnh đạm, thờ ơ, khô khan tình cảm. Ngay cả sự
khoan hồng đối với tội nhân cũng luôn được thực hiện ở nhiều xã hội khác nhau,
và không ai cho đó là một sai lầm. Vì chính sự khoan dung và tha thứ có tác
dụng chuyển hóa còn mạnh mẽ hơn cả những hình phạt nghiêm khắc nhất. Trong một
số trường hợp, sự trừng phạt có thể tạo ra tâm trạng oán hận và có tác dụng
ngược lại, trong khi sự khoan hồng bao giờ cũng mang đến sự biết ơn và cảm hóa.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce có thể xem là một tấm gương vị tha và tích
cực giúp đỡ người khác. Những người đến với ông trong cơn khốn khổ đều được ông
giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để giúp họ giảm nhẹ mọi nỗi đau khổ, cho dù hơn ai
hết ông luôn nhìn thấu mọi tội lỗi, sai lầm của họ trong quá khứ. Trong suốt
bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và nhân ái để cứu
giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng là con người luôn
chịu sự chi phối của luật nhân quả mà phương Đông đã biết rõ từ lâu đời. Đồng
thời những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận rằng lòng thương yêu và lý tưởng
phụng sự bao giờ cũng là nền tảng dẫn đến mọi điều tốt đẹp.
Vì thế, bất kể rằng tội lỗi của một người khác là như thế nào trong
những kiếp quá khứ, ta vẫn nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng bao giờ lầm tưởng
rằng làm như thế là có thể can thiệp vào tác động của luật nhân quả.
Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng sự thờ ơ lãnh đạm truớc sự đau khổ của
kẻ khác cũng là một điều xấu ác sẽ đưa đến quả báo xấu về sau này.
Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người luôn có quyền tự
do ý chí trong mọi hành động và không phải tất cả mọi việc trong cuộc đời đều
đã được định sẵn từng chi tiết một cách bất di bất dịch. Mỗi một sự cố gắng của
chúng ta để giúp đỡ một người đang khổ đau hoạn nạn không chỉ là một kinh
nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự hoàn thiện tâm hồn mình, mà còn là một
nhân tố tích cực có thể làm thay đổi cả thái độ tinh thần và cuộc đời của đương
sự.
Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả đều là do tư tưởng và hành vi
tạo nên. Những hành vi sai trái, những cung cách xử thế sai lầm, đều có nguyên
nhân từ sự lầm lạc trong tư tưởng. Vì thế, người ta chỉ có thể thay đổi thái độ
đối với cuộc đời theo hướng tốt đẹp hơn bằng cách hoàn thiện phần tư tưởng.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố xác định rằng tư tưởng
chính là sức mạnh sáng tạo, và nếu không có sự thay đổi tư tưởng theo hướng tốt
đẹp hơn thì người ta không thể sửa đổi lại những nghiệp quả xấu ác đã gây ra từ
trước.
Luật nhân quả quyết định một cách chắc chắn rằng mỗi con người tự tạo
nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật
nhân quả không áp đặt bất cứ điều gì lên sự tự do ý chí của con người, nhưng
đảm bảo một cách chính xác rằng mỗi một hành vi hay tư tưởng của chúng ta trong
hiện tại đều sẽ mang đến những kết quả tương xứng trong tương lai. Và điều này
thúc đẩy mọi người phải hết sức nỗ lực để tự tu dưỡng bản thân, hướng đến một
tương lai ngày càng tốt đẹp hơn nữa.
Chính vì hiểu rõ luật nhân quả nên người Phật tử luôn giữ thái độ hồn
nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm của cuộc đời. Điều
mà họ quan tâm nhất không phải là hoàn cảnh trong hiện tại tốt hay xấu, mà
chính là việc mình đã làm được những gì để tích lũy cho tương lai. Và quan điểm
sống đó bao giờ cũng giúp họ tích cực vươn lên trong cuộc sống, cho dù có gặp phải
nhiều khổ đau và bất hạnh.
Comments
Post a Comment