nbacd-11 - Quả Báo Tâm Lý
Chương 11
Quả
Báo Tâm Lý
Chúng ta đã thấy rằng tánh kiêu căng - một thói xấu về mặt tinh thần -
có thể gây nên những quả báo cụ thể về mặt vật chất qua hình thức những bệnh
tật khốn khổ. Những tập hồ sơ của ông Cayce cũng chứa đựng nhiều trường hợp mà
những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo về mặt tâm lý. Trong số đó
có hai trường hợp đáng kể về quả báo khiến cho đương sự rơi vào tâm trạng lạc
loài cô đơn mà nguyên nhân là thiếu sự khoan dung trong ứng xử.
Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện Pháp vào thời
vua Louis XIV. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và thiếu đức khoan dung
đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người khác, vì bà hiểu Kinh Thánh một
cách quá cứng nhắc, gò bó theo từng chữ từng câu, và luôn có thái độ khinh bỉ
những người nào vi phạm những lời răn dạy trong Kinh Thánh.
Hậu quả của thái độ khắc nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng
một chứng bệnh đau hạch kéo dài không dứt, làm cho bệnh nhân bị hoại huyết quá
nhiều trong lúc có kinh nguyệt. Chứng bệnh này làm cho cô không thể đi học đều
đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần lễ, và làm cho cô trở nên nhút
nhát, thích sống cô đơn và luôn tránh xa các bạn bè đồng lứa tuổi. Những điều
này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.
Về sau những chứng bệnh kể trên đã dần dần giảm bớt. Nhờ có một thân
hình đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề người mẫu ở
Tại đây, cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê tha. Lúc đầu, cô
cảm thấy men rượu có thể giúp cho cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu
khổ.
Nhưng khi đã trở nên nghiện ngập rồi, cô không thể ngưng lại được nữa;
càng ngày càng uống rượu nhiều hơn và say sưa liên tục. Có khi cô uống luôn cả
ngày đêm không dứt trong ba tuần liên tiếp, và ăn nằm với bất cứ người nào,
lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo lúc cao hứng. Khi say rượu thì cô
đánh mất cả mọi sự dè dặt trong hành vi, cử chỉ.
Sau cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng của chất men
rượu nồng. Hai bàn tay cô bắt đầu run rẩy đến mức cô không thể ký tên vào những
ngân phiếu để lãnh tiền của chồng cô gửi về. Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ
trí khôn, cô quyết định rời khỏi trại nghỉ mát là trung tâm qui tụ hàng nửa
chục căn cứ hải quân và đồn trại ở gần bên.
Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô đang làm thư ký với ít
nhiều trách nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã
ly dị với chồng.
Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do thần kinh quá căng thẳng,
mà điều này lại phát sinh từ chứng bệnh đau hạch mà ra. Chứng bệnh này lại là
hậu quả trực tiếp của những hành vi phê phán quá khắc nghiệt của cô đối với
người khác và sự thiếu lòng nhân từ của cô ở kiếp trước. Những sự lầm lạc yếu
đuối của kẻ khác mà trước kia cô lên án một cách khắt khe, nghiệt ngã, ngày nay
đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính bản thân cô.
Khi phải nhận lãnh quả báo như thế cô mới hiểu ra được rằng sự lầm lạc
tội lỗi của người đời là đáng thương, và cần phải thông cảm, giúp đỡ, tìm cách
chuyển hóa họ thay vì chỉ lên án và chê bai. Những kẻ thích thú trong việc chế
nhạo, chỉ trích chê bai kẻ khác rồi phải nhận lãnh cái số phận của những kẻ mà
chính họ đã lên án.
Trường hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói kiêu căng và nhiều
thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp rất lâu xa trước đây tại
Cuộc soi kiếp cho biết rằng cô đã gặp phải rất nhiều người khó tính
trong kiếp hiện tại. Những người này hết sức khắt khe, soi mói và sẵn sàng lên
án kẻ khác. Trước kia cô đã gây nhiều đau khổ cho kẻ khác bởi sự khắt khe quá
đáng của mình. Khi người ta nhận chìm một số người xuống nước trong vụ xử án
những phù thủy, cô đứng chứng kiến và vỗ tay hoan nghênh. Khi những người khác
bị trừng phạt bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi vậy, vào những lúc thần
kinh quá căng thẳng thì cô cũng thường nhớ lại những hình phạt đau khổ của kẻ
khác mà cô đã chứng kiến trong quá khứ. Hiện thời, cô bị một chứng nội thương
trong mạch máu và tủy sống, làm cho cô phải trải qua những giai đoạn đau đớn
thể xác. Sự đau đớn thể xác này là điều mà cô bắt đầu chịu đựng từ năm ba mươi
chín tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát nhiều lần trong suốt mười
bốn năm kế đó.
Cô không lập gia đình nhưng có nhà ở một khu sang trọng tại
Sự khắc nghiệt, thiếu khoan dung của cô đã làm cho nhiều người phải thất
vọng đau khổ trong những kiếp trước. Bởi vậy, thật là công bình khi cô phải tự
mình trải qua những kinh nghiệm thất vọng đau đớn đó trong kiếp này.
Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không chịu quả báo
sớm hơn về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ
Trong kiếp sống sau đó ở
Trong những thói xấu cùng loại với tánh hẹp hòi, thiếu khoan dung và
nghiệt ngã còn có tánh hay chỉ trích người khác. Trường hợp sau đây là một thí
dụ lý thú về quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích.
Đó là một quân nhân hai mươi bảy tuổi, cấp bậc thiếu úy, có tánh tự ti
mặc cảm và luôn luôn nghĩ rằng mình bất lực, không làm nên trò trống gì.
Chúng tôi không được biết những lý do nào đã làm trở ngại sự phát triển
cá tính của anh ta trong thuở thiếu thời. Có thể rằng anh ta đã có một người
cha hay người mẹ hay công kích một cách vô lý; hoặc vì anh ta có một khuôn mặt
xấu xí, làm cho bè bạn trong lớp chế giễu nhạo báng. Trong cuộc soi kiếp cho
anh ta, ông Cayce nói:
- Ai gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Vì anh đã chỉ trích kẻ khác một cách
gay gắt và vô lý nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp trước là một
nhà phê bình văn nghệ, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt gao mọi tác
phẩm mà anh ta không hài lòng, dĩ nhiên là thiếu sự khách quan và công bằng.
Điều đó thường gieo sự ngờ vực hoang mang không đáng có trong lòng các tác giả,
làm cho họ mất tin tưởng về năng lực sáng tác của chính họ. Ngày nay, quả báo
tương ứng đã đến với anh ta, khiến anh ta tự nhiên mang lấy một tâm trạng tự ti
mặc cảm mà không rõ nguyên do.
Chúng ta nhìn thấy ở đây một khía cạnh mới của luật nhân quả vô cùng
phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về phần tinh thần, đáng để cho ta suy
gẫm. Trong thực tế, những nhà phê bình chuyên môn có đủ năng lực chỉ gồm một số
rất ít, nhưng trên thế giới hiện nay có vô số những nhà phê bình tài tử, nghĩa
là không chuyên nghiệp, không có đủ trình độ chuyên môn.
Có lẽ không một nghề nghiệp nào khác trên thế gian này lại có nhiều người
hành nghề tài tử như nghề này! Các nhà phê bình không chuyên dường như rất say
mê và thích thú trong việc chỉ trích người khác, bất kể những điều họ nói ra có
dựa trên lập luận chắc chắn và khách quan hay không, và cũng bất kể rằng những
nạn nhân của họ sẽ phải chịu đựng những gì do sự phê phán bừa bãi không chuẩn
xác của họ!
Đây là một nghề này không cần bỏ vốn và thật dễ làm! Ngoài ra, nó còn là
một kiểu tiêu khiển thú vị của người đời, một trò chơi mà người ta có thể tham
gia ngay trên đường phố hoặc trong quán cà phê, suốt cả năm này qua tháng nọ mà
chỉ cần dùng có một công cụ duy nhất là cái lưỡi sắc bén! Chỉ cần hai hay ba
người tụ họp lại là trò chơi phê bình, chỉ trích này đã có thể bắt đầu một cách
thoải mái, và nạn nhân có thể là bất cứ ai trong những người quen biết của các «nhà phê bình» này!
Mặc dù sự chỉ trích là một trò tiêu khiển không tốn kém, nhưng nó có thể
buộc người ta phải trả một cái giá đắt về sau. Theo những gì mà thần nhãn của
ông Cayce nhìn thấy trong sự tác động của luật nhân quả trải qua dòng thời gian
vô tận, ông thường đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những
ai say mê theo tật xấu này.
Thí dụ sau đây, trong hàng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng
hiển nhiên để ta suy gẫm. Hồ sơ ghi lại lời ông Cayce như sau:
- Tôi thấy rõ người này thường tỏ ra quá nghiêm khắc trong sự chỉ trích
kẻ khác. Phải dừng bớt lại, vì những gì mà ta chỉ trích kẻ khác không xuất phát
từ lòng chân thật muốn xây dựng, giúp đỡ người ấy, mà chỉ để thỏa mãn sự tự
tôn, kiêu ngạo của bản thân mình, sẽ mang đến cho ta những quả báo xấu dưới một
hình thức tương ứng nào đó.
Đó là một lời tuyên bố rõ ràng về luật nhân quả. Theo đó, một nguyên
nhân gây ra những khổ đau về mặt tâm lý cho người khác sẽ mang đến một hậu quả
xấu với trạng thái tâm lý tương ứng. Điều này nhắc chúng ta nhớ lại một lời răn
dạy trong Kinh Thánh. Đức Jesus có dạy rằng:
- Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời nói vô ích mà con người thốt ra, họ
sẽ phải trả lời trong ngày phán xét cuối cùng.
Và kế đó là những lời răn:
- Không phải những gì chui vào lỗ miệng của một người làm cho người ấy
bị ô nhiễm, nhơ bợn, mà chính là những gì từ trong lỗ miệng của người ấy chui
ra!
- Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác lên án. Vì ngươi lên
án kẻ khác như thế nào, thì đến lượt ngươi cũng sẽ bị lên án như thế đó!
Những lời răn trên đây, đối chiếu với luật nhân quả mà chúng ta đã thấy
có một ý nghĩa rất phù hợp và cũng vô cùng hợp lý trên phương diện thực tế,
khiến người ta không thể xem thường.
Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng chính cái động cơ
thúc đẩy và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức mạnh chuyển vận luật nhân
quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ làm cho người thanh niên kia bị sa đọa,
mà chính cái thái độ thiếu khách quan của anh ta và sự hoang mang ngờ vực mà
anh ta đã gieo trong lòng kẻ khác về tài năng của họ, chỉ vì những lời phê phán
một cách cẩu thả, bừa bãi.
Người ta thấy có một sự tương tự như khi người lính La Mã ngược đãi
những tín đồ đạo Gia Tô, đã kể ở chương 5. Nghiệp quả của anh ta gây ra không
phải là vì anh ta thi hành nhiệm vụ của người một lính, mà chính vì thái độ tàn
ác của anh ta đối với những người không đủ sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát
của anh ta.
Ở đây cũng như trong mọi trường hợp khác, chính cái thái độ tinh thần
đứng sau mỗi hành động mới là cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả. Trước
đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài chuyên chế có nguyên nhân
xuất phát từ những kinh nghiệm chỉ huy trong kiếp trước. Khả năng lãnh đạo là
một đức tính tốt, nhưng nó rất dễ biến đổi thành thói xấu là chuyên chế độc
tài.
Trong lịch sử, ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền thế trong
tay thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn những tham vọng riêng của mình.
Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và quả báo gây ra do
những hành động đó đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ sơ của ông
Cayce. Thí dụ sau đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ
các vụ án phù thủy ở
Người này là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị và khủng
bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong khi
thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để giữ gìn thuần
phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả này
lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục. Những người phụ nữ
bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y!
Những tập hồ sơ cho biết rằng kẻ đạo đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp
này. Hiện nay anh ta là một thiếu niên mười một tuổi, con của một người đàn bà
nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi. Anh ta thường bị chứng động kinh rất dữ dội. Trong
lúc soi kiếp, anh ta đã bị bại liệt hết nửa người bên trái và câm không nói
được. Anh ta không thể tự mình thay y phục hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu tiện,
nên lúc nào cũng phải có người dìu dắt. Hai vai của anh ta đã còng, và sau một
cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, mỗi lần cách nhau khoảng nửa giờ, anh ta
không thể giữ vững đầu mình nằm ngay ngắn trên cổ được nữa, và không thể ngồi
dậy được nếu không có người nâng đỡ.
Theo ông Cayce, bệnh động kinh thường là quả báo của sự hoang dâm vô độ.
Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố quan trọng.
Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ anh ta dường như là một sự đảo lộn
địa vị giàu sang quyền thế của anh ta trong kiếp trước. Chứng động kinh là hậu
quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi anh ta lạm dụng quyền hành để thỏa mãn thú
tính.
Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời kỳ khủng
bố đạo Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, là quân nhân trong đạo binh La
Mã. Ngoài số tiền lương tháng không nhỏ, dựa vào cấp bậc khá cao của mình anh
ta đã dùng thế lực để kiếm được những món tiền khổng lồ.
Cuộc soi kiếp không nói rõ anh ta đã dùng những phương cách nào, không
biết là anh ta đã biển thủ công quỹ hay dọa nạt kẻ khác để làm tiền; nhưng nói
chung là anh ta đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều
của cải vật chất. Tuy vậy, anh ta phải chịu mất mát nhiều về phương diện tâm linh.
Trong kiếp hiện tại, Romus bị nhiều đau khổ, sự nghèo đói, lầm than,
không nhà cửa luôn bám theo anh ta suốt đời. Nghề thợ may không đủ sinh lợi để
nuôi một vợ và năm con, anh ta phải nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ mới có thể
sống qua ngày một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn.
Trong trường hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những
quả báo tương ứng với hành vi xấu của mình trong quá khứ. Tình hình tài chánh
tuyệt vọng của anh ta phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà anh ta đã gây ra
cho kẻ khác trong kiếp trước.
Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền hành, cũng rất đáng
cho ta ghi nhớ. Một người đàn bà thuộc giai cấp trưởng giả thời Cách mạng Pháp,
đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quí tộc. Với tấm lòng thành thật tranh
đấu cho lý tưởng, bà đã thực hiện một sự tiến bộ lớn về đường tâm linh. Nhưng
sau cuộc Cách mạng, khi dịp may đưa bà đạt tới một địa vị quan trọng trong
chính phủ, bà liền trở nên độc tài và lạm dụng quyền thế không thua gì những
người mà bà đã tranh đấu chống lại trước kia. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce
nói:
- Hậu quả đưa đến là trong kiếp hiện tại, người này phải chịu dưới quyền
sai khiến của kẻ khác, tương ứng với sự độc tài và hách dịch trước kia.
Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời rất khó khăn. Vào lúc soi
kiếp, bà đã bốn mươi tuổi, góa chồng mười năm và có một đứa con gái. Bà phải
chiến đấu với nghịch cảnh để tự mưu sinh và nuôi con. Bà đã tìm được việc làm
trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chính phủ trong một thời gian,
nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu nguồn vui sống đã làm
cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải do sự ngẫu nhiên tình
cờ, mà đó là hậu quả chính xác của những sự đè nén áp bức mà bà đã gây ra cho
kẻ khác khi lạm dụng quyền hành trong tay.
Xét qua bề ngoài hiện nay thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế
khủng hoảng và một số phận hẩm hiu; nhưng xét về luật nhân quả thì bà chỉ là
nạn nhân của chính mình.
Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một tiêu chuẩn quan trọng để
tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi đau khổ của
họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong hiện tại.
Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói rằng: «Số mạng chính là hạnh kiểm», ông ta đã
nêu ra một mối quan hệ hoàn toàn chính xác theo cả hai chiều. Vì những trường
hợp đã xét qua như trên dường như cho thấy rằng cái gọi là «số mạng» của một con người hiện nay
chính là phản ảnh hạnh kiểm của người ấy trong quá khứ. Và ngược lại, hạnh kiểm
trong hiện tại sẽ quyết định việc số phận một người trong tương lai có tốt đẹp
hay không.
Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà không ít người
khi học hỏi nghiên cứu và suy gẫm về thuyết nhân quả thường nêu ra. Nếu như sự
nghèo khổ là những quả báo xứng đáng dành cho những kẻ trước đây hung dữ, độc
ác, bất công, thì tại sao ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc
cứu tế xã hội để làm gì? Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp những kẻ
bần cùng khốn khó chính là ngăn trở những tác động động của luật nhân quả?
Chúng ta nên hiểu rằng, trong thuyết nhân quả thì nhân và quả không phải
là hai phần hoàn toàn tách biệt nhau. Ngược lại, chúng luôn gắn bó với nhau một
cách chặt chẽ như một yếu tố duy nhất. Những gì ta nhìn thấy là quả báo của một
người thì từ một góc độ khác cũng chính là cái nhân để tạo ra một quả báo khác.
Vì thế, một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã
hội, những khó khăn khốn khổ của người khác, cho dù người đó là ai, thì tự thân
nó đã phải bị xem là một hành vi không tốt đẹp và chắc chắn phải chiêu cảm một
quả báo không tốt đẹp.
Mặt khác, tuy một người đã có những hành vi không tốt dẫn đến phải lãnh
chịu một quả báo không tốt, nhưng sự giúp đỡ người ấy hoàn toàn không có nghĩa
là tán thành những hành vi không tốt của người ấy trước đây, mà chính là một
phương cách tích cực nhất để giúp người ấy nhận ra sự không tốt của mình và ăn
năn hối lỗi. Vì thế, đây là cách tốt nhất để chuyển hóa những khuynh hướng xấu
thành những khuynh hướng tốt. Tương tự như khi ta đối xử khoan hồng và tốt đẹp
với những tù nhân trong các trại giam, đó không phải là ta tán thành với những
tội lỗi trước đây của họ, mà là chứng tỏ cho họ thấy lòng tốt thực sự của con
người là như thế nào. Chính điều này mới có công năng chuyển hóa họ trở thành
người tốt, chứ không phải chỉ riêng sự trừng phạt có thể làm được như vậy.
Thuyết nhân quả khi được nhận hiểu một cách đúng đắn sẽ không thể dùng
để bào chữa cho những hành vi của kẻ thiếu đạo đức, dửng dưng trước sự khốn khó
của đồng loại. Nền tảng của thuyết nhân quả trước hết là chú trọng về mặt tinh
thần, vì tiêu chuẩn tự nhiên của một hành vi được gọi là hiền thiện tốt lành
chính là khi nó giúp chuyển hóa tinh thần con người hướng đến sự toàn thiện.
Nhưng thuyết nhân quả cũng có ý nghĩa tích cực về mặt xã hội, bởi vì mục
đích tối nhất của sự hoàn thiện tinh thần cũng chính là tình thương; và tình
thương chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng và
quả báo xấu xa. Ý nghĩa tích cực của luật nhân quả nằm ở chỗ tình thương bao
giờ cũng là nhân tố tích cực và thiết yếu nhất trong việc xây dựng một xã hội
tốt đẹp hơn, cho dù đó là một xã hội cổ sơ hay hiện đại, là nằm ở phương Đông
hay phương Tây.
Luật nhân quả luôn khách quan và công bằng tuyệt đối, cũng ví như mực
nước luôn giữ sự cân bằng trong các bình chứa. Dầu cho con người gặp phải hoàn
cảnh nào, sống trong địa phương nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ,
đó chỉ là những điều kiện bên ngoài làm bối cảnh cho luật nhân quả biểu lộ
những tác động của nó mà thôi. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là trong bất cứ
hoàn cảnh nào, mỗi người luôn có những cơ hội và khả năng để tự sửa mình và
vươn lên hoàn thiện, sửa chữa những khuyết điểm và lỗi lầm đã qua. Xét từ khía
cạnh đó thì việc tin nhận luật nhân quả luôn mang đến cho chúng ta một tín hiệu
lạc quan đáng mừng giữa cuộc đời mênh mông đầy dẫy khổ đau này.
Comments
Post a Comment