nbacd-12 - Nguyên Nhân của Những Trạng Thái Tâm Lý Lạ Lùng
Chương 12
Nguyên
Nhân
của Những Trạng Thái
Tâm Lý Lạ Lùng
Ngày nay, nhiều người đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh
từ tiềm
thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud đã khám phá ra
khái niệm về tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc nghiên cứu về giấc
ngủ thôi miên.
Vì những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại những sự việc
xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn quên hẳn trong lúc bình thường, nên ông
Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm thức là một kho ký ức lưu giữ
những ấn tượng đã qua mà người ta không thể nhớ lại bằng bất cứ cách nào khác.
Về sau, ông Freud không dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bệnh
nữa, vì trong nhiều trường hợp nó không được hoàn mỹ. Nhưng ông vẫn tiếp tục
thí nghiệm những phương pháp khác để thám hiểm vực sâu thẳm của tiềm thức con
người. Tuy thế, người ta cũng xem khoa thôi miên như là nguồn gốc của khoa Phân
tâm học (Psychanalyse) do ông khởi xướng.
Trong lãnh vực tâm lý theo thuyết luân hồi, khoa thôi miên có thể có một
vai trò tương tự. Thần nhãn của ông Cayce dường như cho thấy rằng một người
trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của người khác. Một sự
kiện quan trọng hơn nữa là dường như người ấy cũng có thể nhìn thấy và sống lại
những tiền kiếp của chính mình.
Những kinh nghiệm lùi về quá khứ trong trạng thái thôi miên cho thấy
rằng trong tiềm thức của một người có sự lưu giữ ký ức của tất cả sự việc đã
từng xảy ra trong quá khứ. Khi một người trong trạng thái thôi miên được dẫn dụ
lùi về quá khứ đến năm lên mười tuổi và được yêu cầu viết tên mình thì anh ta
sẽ viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu vào năm lên mười. Khi người này lùi về
đến năm sáu tuổi, anh ta sẽ viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa; và khi anh
ta lùi về đến năm lên ba, anh ta chỉ có thể cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc những
nét không có ý nghĩa gì cả!
Hiện tượng lùi về quá khứ trong trạng thái thôi miên như vừa nói trên
thường được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lý ở các trường đại
học, và những sinh viên tâm lý học đã khá quen thuộc với hiện tượng ấy. Nhà bác
học Pháp De Rochas vào thế kỷ 19 đã tuyên bố rằng với kỹ thuật lùi về dĩ vãng
như trên, ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của
ông có nhan đề «Những kiếp sống liên tục»
(Les Vies Successives) không được xem như một tác phẩm khoa học, nhưng có lẽ
một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh như một công trình tiền phong trên địa hạt
tâm lý về thuyết luân hồi.
Những trạng thái tâm lý lạ lùng được xem xét bằng hiện tượng thần nhãn
của ông Cayce giải thích tính chất của ký ức và tiềm thức, và có vẻ như xác
nhận rằng tiềm thức con người thật ra còn thâm sâu hơn những gì mà các nhà phân
tâm học hiện nay có thể hiểu được.
Một trong những trạng thái tâm lý lạ lùng nhất là sự sợ hãi. Những nhà
phân tâm học định nghĩa điều này như là một «sự sợ hãi quá độ» mà nguồn gốc là do nhiều nguyên nhân phức tạp gây
nên. Sự sợ hãi khác thường này làm cho con người sinh lòng thù nghịch, gây hấn,
hoặc cảm thấy mình có tội lỗi rất nặng nề. Những cảm xúc ẩn tàng này về sau
biểu lộ dưới hình thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường đối với một vài sự vật
ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ những gian phòng kín, sợ trèo cao, sợ mèo hay sợ
chuột, sợ giông mưa, sấm sét, sợ nước v.v...
Có nhiều trường hợp, những sự sợ hãi đó đã được truy nguyên từ một việc
xảy ra trong kiếp trước, làm cho người ấy bị đau khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lý thú là trường hợp của một người phụ nữ từ thuở thiếu thời
đã sợ những gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ ngồi gần
chỗ cửa ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông người, cô bước xuống
để đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, dạo chơi ở miền núi, cô rất
sợ chui vào những hang động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bề khép kín, không
nhìn thấy lối ra.
Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ lạ lùng này, vì
không ai có thể nhớ lại thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho cô có sự sợ sệt như
vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước cô từng
chui vào một cái hang, thình lình hang bị sụp lở, đè bẹp cô dưới đống đất đá và
cô phải chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn in sâu trong
tiềm thức của cô.
Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh
sợ là sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhất là những loài thú nhà. Cô
nổi cơn hoảng sợ mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình, hay khi thấy ai sử
dụng dao bén. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết là trong một kiếp trước ở Ba
Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn.
Còn việc sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình người nào
cũng có nuôi chó hay nuôi mèo. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con chó hay con mèo
thì giật mình kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô không khi nào mặc
áo choàng bằng da thú, hoặc có cổ áo may bằng lông thú.
Những nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những
sự giao tế với người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối với
người anh ưa nuôi thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ lòng
thù nghịch của cô. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp đã truy nguyên sự sợ sệt này
từ một kiếp trước ở châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm khủng
khiếp về những loài vật có hình thù ghê rợn.
Cuộc soi kiếp cũng giải thích nhiều tâm trạng sợ hãi lạ lùng khác và
truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người nọ được
giải thích rằng trong kiếp trước anh ta là một tù chính trị dưới thời vua Louis
XVI và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong ngục
tối. Một người khác sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra thì được biết rằng kiếp
trước anh ta đã trải qua kinh nghiệm rùng rợn trong một phòng tra tấn ở Pháp,
và đã bị tra khảo bằng những thứ hình cụ khủng khiếp nhất.
Một người khác có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như luôn cảm thấy
rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp
trước, vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển. Trong
khi đó anh ta đang ngồi một mình trên một ngọn đồi cao để xem sách, thình lình
cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung quanh như trời long đất lở và
anh ta nhìn thấy nước biển dâng lên chung quanh ngọn đồi của anh ta.
Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Nguyên nhân được biết
là từ một kiếp trước ở La Mã, chồng bà có tội và bị buộc phải đấu sức với thú
dữ trong đấu trường. Bà đã phải chứng kiến cảnh thú dữ xé xác chồng sau khi vật
chết ông.
Hai người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì được biết
rằng kiếp trước họ đi tắm sông bị dòng nước xoáy cuốn đi và chết đuối. Một
người nữa cũng rất sợ nước, được biết rằng trạng thái sợ hãi này là do trong
tiền kiếp vào thời đế quốc La Mã đã bị đắm tàu chết đuối trong một cơn bão giữa
biển.
Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm lý thông
thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ trên đây
cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra một nguyên nhân
trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong phòng kín, có thể đã bị
nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô đã quên mất việc
đó.
Do sự khêu gợi trong trạng thái thôi miên, người ta có thể đào xới việc
ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên các yếu
tố đó mà hiểu được những vấn đề xúc động thường gây nên các chứng rối loạn thần
kinh.
Nhưng nhiều người đã có những kinh nghiệm cùng loại như trên, vì sao lại
không có sự sợ hãi quá đáng một cách vô lý như vậy? Và tại sao có những người
lại có sự thụ cảm quá đặc biệt so với những người khác? Nếu tất cả những người
đã từng trải qua những cơn xúc động tình cảm đều sợ ngồi trong phòng kín, thì
trên thế gian này những người như thế có lẽ sẽ nhiều đến nỗi người ta phải đóng
cửa tất cả các phòng điện thoại công cộng, buồng ngủ, những gian phòng độc
chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi đe dọa sự thăng bằng của tâm hồn,
trí não và sức khỏe công cộng!
Theo tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự kiện một đứa
trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng xúc động tâm lý
nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh tạo ra trong
kiếp này chỉ là phương tiện làm khơi dậy cái ấn tượng kinh khủng đã bị vùi lấp
trong ký ức.
Theo thuyết nhân quả chúng ta thấy rằng tiềm thức ví như một kho chứa
sâu thẳm, thực sự sâu hơn những gì người ta nhận biết trong trạng thái bình
thường.
Một vài nhà tâm lý học, đặc biệt là Carl Jung, tin rằng những lớp sâu
thẳm trong tiềm thức cần được xem như những nguyên nhân sâu kín để giải thích
những trạng thái tâm lý khác thường mà người ta không thể giải thích bằng cách
nào khác.
Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm tàng đột
khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm đã trải qua trong tiền kiếp.
Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và những tình cảm trong vô
thức của một người đều là thành phần trong sản nghiệp tinh thần mà người ấy tự
để lại cho mình, chẳng khác nào người ta tích lũy của cải hôm nay để dùng trong
một ngày về sau.
Con người văn minh tân tiến hôm nay đã từng là con người dã man mọi rợ
trải qua nhiều kiếp trong dĩ vãng, và vì thế, thật là một điều tự nhiên nếu
thấy rằng vẫn còn một vài phần thú tính vẫn còn tồn tại trong con người. Trong
cái dĩ vãng xa xăm đó, chính con người đã từng trải qua những sợ hãi khủng
khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của cuộc sinh tồn. Vậy cũng
là điều tự nhiên nếu như ngày nay thỉnh thoảng một con người vẫn cảm thấy những
cơn sợ hãi bất thường, vô lý và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ.
Khi một người đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà
người ấy tiếp xúc trong quá khứ, thì lẽ tự nhiên là ngày nay người ấy cũng cảm
thấy đối với chính những người đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này, những
mối thiện cảm, thương yêu, hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lý và không thể
giải thích được lý do.
Những ký ức thuộc về tiền kiếp có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những
dấu hiệu khác hơn là những sự sợ hãi hay những trạng thái tâm lý khác thường.
Ông Cayce đã căn cứ vào thuyết luân hồi để giải thích hiện tượng về
những giấc mộng tái diễn nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là của một
người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây:
- Tại sao lúc nhỏ tôi thường nằm mộng thấy cảnh tận thế với mây đen bao
phủ và hủy diệt toàn cõi thế gian?
Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời bà ấy rằng, trong một kiếp
trước ở châu Atlantide, bà ấy là một giáo sĩ kiêm y sĩ, và đã chứng kiến trận
thiên tai kinh khủng nhất làm chôn vùi cả châu này dưới lòng biển sâu. Ấn tượng
rùng rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn bà đến nỗi nó thường xuất hiện trong
những giấc ngủ.
Một trường hợp lý thú khác là của một bé gái bốn tuổi thường làm cho mẹ
lo âu vì mỗi đêm đều giật mình thức giấc, khóc la bài hãi một cách vô cùng sợ
sệt. Em bé này có sức khỏe tốt, không bệnh tật gì cả. Mẹ em vì lo lắng nên viết
thư cho ông Cayce để xin ông giải thích về trạng thái kỳ lạ của em.
Cuộc soi kiếp em bé này cho biết rằng kiếp trước em đã chết bất đắc kỳ
tử trong Thế chiến thứ hai ở Pháp. Nhưng chỉ chín tháng sau em đã đầu thai trở
lại trong một gia đình ở Bắc Mỹ. Khoảng thời gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống
không đủ để làm phai mờ những kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh trong ký ức của
em và vì thế nó thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta phải nêu ra câu hỏi
về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết luân hồi thường đưa ra lập luận
này: Nếu có luân hồi, tại sao chúng ta không nhớ lại được những kiếp trước?
Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra không lạ gì
nếu chúng ta xét lại rằng, đừng nói là những kiếp trước, mà ngay trong kiếp này
chúng ta cũng không nhớ được hết những việc đã xảy ra từ lúc còn thơ ấu hay
thuở thiếu thời. Trí nhớ của con người là một cái gì rất mong manh, tinh tế, và
những sự việc trôi qua trong đời ta chẳng khác nào như nước chảy giữa dòng. Cho
nên khi nói rằng ta không nhớ một việc gì, không có nghĩa là việc ấy đã không
xảy ra.
Nếu chúng ta hỏi ai đó một câu đại loại như là:
- Anh đã làm gì vào 10 giờ 26 phút sáng ngày 19 tháng 4 năm...?
Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng người ấy không thể
nào nhớ lại từng chi tiết rõ ràng như đã xảy ra vào đúng ngày hôm đó, chẳng hạn
như anh ta đã mặc y phục như thế nào, nói những chuyện gì với ai .v.v... Nhưng
việc anh ta không nhớ rõ các sự việc đã xảy ra không có nghĩa là anh ta đã
không trải qua những giờ phút đó.
Vì thế, sự phản bác thuyết luân hồi bằng lập luận như trên không thể
đứng vững. Trước hết, sự lãng quên là một hiện tượng rất thông thường và tự
nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất đặc biệt là rất chóng
quên phần chi tiết mà chỉ giữ lại phần đại cương của sự việc. Chẳng hạn, những
người có học thức đều biết rằng 7 lần 7 là 49, hoặc bình phương của 12 là 144.
Nhưng người ấy không nhớ rằng anh ta đã trải qua những giờ mệt nhọc vất vả
trong lớp học hồi thuở thiếu thời để học cách làm những bài toán đó. Nhưng khả
năng suy tính và sự thông hiểu toán pháp vẫn còn tồn tại trong trí óc.
Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải thích bằng cách đó,
chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng khi đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó khi
bước vào nhà người lạ, khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu, khéo
léo về bất cứ một ngành nào... Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng tỏ rằng có
một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng trong một vạn người, không có
đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất vả khó khăn đã trải qua trong thuở ấu
thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ!
Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về
phần đại cương, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên phương
diện luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh
nghiệm đã trải qua trong tiền kiếp mà ngày nay đã quên mất những chi tiết.
Lý luận thứ hai mà một số người dùng để phản đối thuyết luân hồi lại
càng tế nhị hơn. Họ cho rằng thật vô lý khi buộc một cá nhân phải chịu trách
nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng quả báo và sự
trừng phạt chỉ có ý nghĩa khi kẻ phạm tội ý thức được và nhìn nhận tội lỗi của
mình.
Trả lời cho lập luận này, ta có thể căn cứ vào sự liên quan giữa cá tính
và tâm thức. Tâm thức là dòng tương tục nối liền giữa các kiếp sống của một
chúng sinh, không hề bị mất đi khi xác thân tan rã. Vì thế, tuy một người không
thể nhớ rõ quá khứ trong tiền kiếp, nhưng điều đó không có nghĩa là họ đánh mất
đi sự liên quan giữa hai kiếp sống. Chính điều này giải thích việc lưu giữ
những kinh nghiệm mà một người đã tích lũy được trong các kiếp trước. Tâm thức
của mỗi người luôn chứa đựng toàn bộ ký ức về tất cả những sự việc đã xảy ra,
nhưng do sự si mê che lấp và bị cuốn hút theo ngoại cảnh nên ta không thể nhớ
lại được, trừ phi ta áp dụng những phương pháp tu tập đặc biệt làm trong sạch
và lắng đọng tâm thức thì ta mới có thể nhớ lại được những sự việc được lưu giữ
trong cái kho ký ức vô tận của tâm thức.
Ngoài những thí dụ về những trạng thái sợ hãi vô lý và những giấc mộng
tái diễn nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ của ông Cayce những
trạng thái tâm lý kỳ lạ khác nữa.
Chẳng hạn như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp
thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường từ kiếp trước.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết là trong nhiều trường hợp,
một sự rối loạn thần kinh có thể có nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất và
sẽ được chữa khỏi một cách dễ dàng bằng các phương tiện sinh lý. Chúng ta đã
thấy trong chương 2 trường hợp của cô thiếu nữ được chữa khỏi bệnh loạn trí nhờ
nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ điển hình khác là trường hợp của một
người thư ký bưu điện bỗng nhiên thay đổi tánh tình một cách khác thường, thình
lình trở nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia đình khuyên anh ta đi khám bệnh
và vào bệnh viện để điều trị. Các y sĩ tuyên bố rằng anh ta bị chứng khủng
hoảng thần kinh, cần phải cho nằm riêng trong một buồng kín.
Người vợ anh ta yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc khám nghiệm bằng
thần nhãn. Kết quả khám nghiệm cho biết anh ta đã bị té ngã nặng từ nhiều năm
về trước, chạm mạnh vào xương mông làm tổn thương tủy sống, và điều này gây ảnh
hưởng đến toàn bộ hệ thần kinh.
Ông Cayce khuyên người này điều trị bằng phương pháp nắn xương và chạy
điện. Gia đình nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bệnh nhân đã bình phục trở lại
như thường và trở về nhà.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí khác, cuộc khám nghiệm mô tả
rằng bệnh nhân bị ám ảnh do tà khí. Theo những niềm tin truyền thống, người ta
cho rằng một vài chứng bệnh loạn thần kinh có nguyên nhân là vì «ma nhập». Trong Kinh Thánh có kể lại
chuyện đấng Christ đã đuổi tà ra khỏi xác của một người điên, và những người
theo đạo Gia Tô giáo đều quen thuộc với việc các vị cố đạo Gia Tô thực hành
phép đuổi tà (exorcisme).
Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa tâm lý học hiện đại,
và những nhà chữa bệnh thần kinh ngày nay xem đó như một điều dị đoan đã lỗi
thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng tâm thức con người vẫn tồn tại sau
khi chết ở một dạng vô hình thì không có lý do gì mà không tin vào những sự ám
ảnh, khuấy phá hay gây ảnh hưởng của một tâm thức đối với một tâm thức khác.
Chính những tác động tiêu cực này đã tạo ra cho nạn nhân nhiều ảnh hưởng không
tốt về thần trí, và ông Cayce gọi đó là «tà
khí».
Để chữa những bệnh tà khí, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng nhân
điện và khuyên bệnh nhân nên kết hợp với sự cầu nguyện và tu tập pháp tham
thiền quán tưởng.
Có một trường hợp người bệnh được chữa khỏi trong khoảng vài tháng, chấm
dứt hẳn sự ám ảnh của những giọng nói thì thầm bên tai đã từng làm cho người
này sợ hãi đến phát bệnh. Trường hợp này là do quả báo gây nên, vì trong một
kiếp trước bệnh nhân này đã dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.
Comments
Post a Comment